Trang 3 của 9 Đầu tiênĐầu tiên 12345 ... CuốiCuối
Kết quả 21 đến 30 của 83
  1. #21
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0
    Không còn nghi ngờ gì nữa, ông Pru-đông lẫn lộn hai cách đo lường: sự đo lường bằng thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá, và sự đo lường bằng giá trị của lao động. Ông ta nói: "Lao động của bất cứ người nào cũng có thể mua được giá trị mà lao động đó bao hàm". Như vậy là, theo ông ta, một số lượng lao động nào đó bỏ vào trong một sản phẩm trị giá bằng thù lao của người lao động, nghĩa là bằng giá trị của lao động. Đó cũng là lý do khiến ông ta có thể lẫn lộn chi phí sản xuất với tiền công.

    "Tiền công là cái gì? Đó là giá thành của lúa mì, v.v., đó là giá cả đầy đủ của mọi vật. Chúng ta hãy đi xa hơn nữa. Tiền công là tính tỷ lệ của những yếu tố cấu thành ra của cải".

    Tiền công là cái gì? Đó là giá trị của lao động.

    A-đam Xmít khi thì lấy thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá, khi thì lấy giá trị của lao động để làm thước đo giá trị. Ri-các-đô đã bóc trần sai lầm ấy bằng cách nêu rõ sự khác nhau giữa hai cách đo lường ấy. Ông Pru-đông còn làm nghiêm trọng thêm cái sai lầm của A-đam Xmít bằng cách lẫn lộn hai cái làm một, mà A-đam Xmít thì chỉ đặt hai cái bên cạnh nhau mà thôi.

    Sở dĩ ông Pru-đông đi tìm một thước đo của giá trị tương đối của hàng hoá, chính là để tìm ra một tỷ lệ đúng đắn, theo tỷ lệ đó những người công nhân tất phải dự phần chia sản phẩm, hay nói cách khác, để quy định giá trị tương đối của lao động. Để quy định thước đo của giá trị tương đối của hàng hoá, ông ta không nghĩ ra cái gì khác hơn là lấy tổng số những sản phẩm mà một số lượng lao động nào đó đã tạo ra để làm một vật ngang giá của số lượng lao động ấy, như thế tức là giả định rằng toàn thể xã hội chỉ bao gồm những người lao động trực tiếp, lĩnh sản phẩm của chính mình dưới dạng tiền công. Ngoài ra, ông ta coi tính chất ngang giá của ngày lao động của những người lao động khác nhau là sự thật tồn tại trên thực tế. Tóm lại, ông ta đi tìm thước đo của giá trị tương đối của hàng hoá, để tìm thấy sự trả công như nhau của những người lao động, và ông ta coi tiền công ngang nhau là một yếu tố hoàn toàn đã có sẵn, để từ sự ngang nhau này đi tìm giá trị tương đối của hàng hoá. Phép biện chứng ấy thật kỳ diệu biết bao!

  2. #22
    Ngày tham gia
    Nov 2015
    Bài viết
    0
    "Xây và các nhà kinh tế học đi theo ông ta đã nhận xét rằng vì bản thân lao động là một đối tượng mà giá trị phải được xác định, là một hàng hoá như mọi hàng hoá khác, cho nên nếu lấy lao động làm nguyên tắc và nguyên nhân thực tế của giá trị thì đó chỉ là một cái vòng luẩn quẩn. Xin các nhà kinh tế học ấy cho phép tôi nhận xét rằng, nếu nói như vậy thì họ đã phơi bày một sự vô ý kỳ khôi. Lao động được coi là có giá trị không phải vì bản thân nó là hàng hoá, mà là vì hàm ý nói đến những giá trị mà người ta cho là bao hàm ở bên trong nó một cách tiềm tàng. Giá trị của lao động là một cách nói bóng bẩy, một cách đặt nguyên nhân lên trước kết quả. Đó là một điều tưởng tượng, cũng giống như năng suất của tư bản. Lao động thì sản xuất, tư bản thì có giá trị... Nói giá trị của lao động là một lối nói giản lược ... Lao động cũng như tự do... xét về bản chất của nó, là một cái mơ hồ và không xác định, nhưng nó được xác định về mặt chất lượng trong đối tượng của nó, nghĩa là thông qua sản phẩm nó trở thành hiện thực".

    "Thế nhưng, có cần phải nhấn mạnh không? Một khi nhà kinh tế học" (xin hiểu: ông Pru-đông) "đổi tên của sự vật, vera rerum vocabula , thì chính ông ta hiểu ngầm sự bất lực của mình và tránh thảo luận vấn đề" (Pru-đông, t. I, tr. 188).

    Chúng ta đã thấy ông Pru-đông biến giá trị của lao động thành "nguyên nhân thực tế" của giá trị sản phẩm, cho nên đối với ông ta, tiền công - tên chính thức của "giá trị của lao động" - làm thành giá cả đầy đủ của mọi cái. Vì thế lý lẽ bác bỏ của Xây làm cho ông lúng túng. Lao động - hàng hoá là một hiện thực đáng sợ, nhưng ông ta lại chỉ cho đó là một lối nói giản lược về văn phạm mà thôi. Vậy, toàn thể xã hội hiện thời xây dựng trên lao động - hàng hoá, từ nay về sau sẽ xây dựng trên một sự phá cách trong văn thơ, trên một cách nói bóng bẩy. Và nếu xã hội muốn "loại bỏ hết thảy mọi cái bất tiện" mà nó phải gánh chịu thì nó hãy loại bỏ những danh từ khó nghe đi, nó hãy thay đổi lối nói, và muốn thế nó chỉ cần nhờ đến Viện hàn lâm để yêu cầu Viện hàn lâm cho xuất bản một quyển từ điển mới của Viện là được. Căn cứ vào tất cả những điều chúng ta vừa thấy, chúng ta cũng hiểu được dễ dàng vì sao ông Pru-đông, trong một tác phẩm về môn kinh tế chính trị, đã phải lao vào trong những nghị luận dài dòng về nguồn gốc của từ ngữ và các phần khác của văn phạm. Chẳng hạn, ông ta còn đang tranh luận một cách uyên bác chống quan niệm cũ rích cho rằng chữ servus (1) bắt nguồn từ chữ servare (2). Những nghị luận về chữ nghĩa ấy có một ý nghĩa sâu sắc, một ý nghĩa bí truyền (3), đó là một phần chủ yếu của lập luận của ông Pru-đông.

    Lao động (4), vì nó được bán ra và được mua vào, nên nó là một hàng hoá như bất cứ một hàng hoá nào khác và, do đó, nó có một giá trị trao đổi. Nhưng giá trị của lao động, hay lao động với tư cách là hàng hoá, thì sản xuất ra được ở mức độ cũng ít như giá trị của lúa mì - hay lúa mì với tư cách là hàng hoá, - ít có thể dùng làm thức ăn được.

    Lao động "có giá trị" nhiều hay ít, là tùy theo giá thực phẩm đắt hay rẻ, tùy theo lượng cung và lượng cầu về lực lượng lao động ở mức độ này hay mức độ khác, v.v. và v.v..

    Lao động hoàn toàn không phải là một "cái gì không xác định"; cái mà người ta bán ra và người ta mua vào bao giờ cũng là một lao động nhất định, chứ không bao giờ là lao động nói chung. Không phải chỉ có lao động được xác định về mặt chất lượng bởi khách thể của nó, mà bản thân khách thể cũng được xác định bởi các đặc tính của lao động.

    Lao động, vì nó được bán ra và mua vào, nên tự bản thân nó là hàng hoá. Tại sao người ta lại mua nó? "Vì những giá trị mà người ta cho là bao hàm ở bên trong nó một cách tiềm tàng". Nhưng nếu người ta nói rằng cái gì đó là một hàng hoá, thì vấn đề không còn là mục đích mà người ta mua nó nữa, nghĩa là không còn là công dụng mà người ta muốn nó mang lại và không còn là việc định sử dụng nó nữa. Nó là hàng hoá với tư cách là đối tượng mua bán. Tất cả những lý lẽ của ông Pru-đông chung quy chỉ là thế này: người ta không mua lao động như là đối tượng tiêu dùng trực tiếp. Không, tất nhiên người ta mua nó như là công cụ sản xuất, cũng như người ta mua một cái máy vậy. Vì lao động là hàng hoá, nên nó có giá trị, nhưng nó không sản xuất. Ông Pru-đông cũng có thể nói rằng không có hàng hoá gì cả, bởi vì bất cứ hàng hoá nào cũng chỉ được mua vào với một mục đích sử dụng nào đó, chứ không bao giờ vì bản thân nó là hàng hoá cả.

    ----------------------------------------------------------------------
    (1): nô lệ
    (2): duy trì
    (3): thầm kín, chỉ dành cho những người nào đó biết
    (4): Trong bản Mác viết tặng N.U-ti-na năm 1876, sau chữ "lao động" còn có thêm: "sức lao động". Phần thêm này có trong lần xuất bản bằng tiếng Pháp năm 1896.

  3. #23
    Ngày tham gia
    Nov 2015
    Bài viết
    0
    Khi đo giá trị hàng hoá bằng lao động, ông Pru-đông cũng cảm thấy một cách lờ mờ rằng, không thể nào không dùng cái thước đo chung ấy cho lao động, vì lao động cũng có một giá trị, tức là lao động - hàng hoá. Ông ta linh cảm thấy rằng như thế là lấy mức tối thiểu của tiền công làm giá cả tự nhiên và bình thường của lao động trực tiếp, rằng như thế là chấp nhận chế độ xã hội hiện tồn. Cho nên, để tránh khỏi kết quả tai hại ấy, ông ta xoay trở lại và cho rằng lao động không phải là một hàng hoá, rằng lao động không thể có một giá trị. Ông ta quên bẵng đi rằng ông ta đã tự mình lấy giá trị của lao động làm thước đo, ông ta quên bẵng đi rằng toàn bộ học thuyết của ông ta đều dựa trên lao động - hàng hoá, dựa trên lao động là đối tượng mua bán, được bán ra và mua vào, được trao đổi với các sản phẩm, v.v., cuối cùng là dựa trên lao động tạo ra nguồn thu nhập trực tiếp đối với người lao động. Ông ta quên hết thảy.

    Để cứu vãn học thuyết của mình, ông ta đã đồng ý hy sinh cơ sở của học thuyết ấy.
    Et propter vitam vivendi perdere causas !
    {Và vì muốn sống, mà bỏ đi cái cội rễ của cuộc sống! (Giu-vê-nan, "Những bài thơ trào phúng").}

    Bây giờ chúng ta đi đến một sự xác định mới về "giá trị cấu thành":
    "Giá trị là quan hệ tỷ lệ của những sản phẩm cấu thành của cải".

    Trước hết, chúng ta hãy chú ý rằng chỉ riêng chữ "giá trị tương đối hay giá trị trao đổi" đã bao hàm ý niệm về một quan hệ nào đó, theo quan hệ này các sản phẩm được trao đổi với nhau. Nếu người ta cho quan hệ ấy cái tên là "quan hệ tỷ lệ", thì người ta đã không thay đổi tí gì về giá trị tương đối cả, ngoài cái tên gọi mà thôi. Sự giảm giá trị cũng như sự nâng cao giá trị của một sản phẩm đều không làm mất đặc tính của nó là phải theo một "quan hệ tỷ lệ" nào đó với những sản phẩm khác cấu thành của cải.

    Vậy thì tại sao lại có cái thuật ngữ mới ấy, nó không mang lại một khái niệm gì mới cả?

    "Quan hệ tỷ lệ" làm cho người ta nghĩ đến nhiều quan hệ kinh tế khác, như tính tỷ lệ của sản xuất, tỷ lệ đúng đắn giữa cung và cầu v.v., và ông Pru-đông cũng đã nghĩ đến tất cả những cái đó khi ông ta đề ra cái lối giải thích kiểu sư phạm ấy về giá trị trao đổi.

    Thứ nhất là, vì giá trị tương đối của các sản phẩm là do số lượng so sánh của lao động dùng vào việc sản xuất ra mỗi một sản phẩm quy định, nên quan hệ tỷ lệ, ứng dụng vào trường hợp đặc biệt này, có nghĩa là lượng tương đối của những sản phẩm có thể chế tạo ra trong một thời gian nhất định và, do đó, được trao đổi với nhau.

    Hãy xem ông Pru-đông rút ra cái gì từ quan hệ tỷ lệ ấy.

    Ai cũng biết rằng, khi cung và cầu cân đối với nhau, thì giá trị tương đối của một sản phẩm nào đó là do số lượng lao động bỏ vào đó quy định một cách chính xác, nghĩa là giá trị tương đối ấy biểu thị quan hệ tỷ lệ theo đúng nghĩa mà chúng ta vừa giải thích. Ông Pru-đông đã đảo lộn trình tự của sự vật. Ông ta nói: các anh hãy bắt đầu làm việc đo giá trị tương đối của một sản phẩm bằng số lượng lao động bỏ vào đó đi, thì tất nhiên cung và cầu sẽ cân đối với nhau ngay. Sản xuất sẽ phù hợp với tiêu dùng, sản phẩm sẽ luôn luôn có thể trao đổi được mà không gặp trở ngại gì. Giá cả thị trường của nó sẽ biểu thị giá trị thật sự của nó một cách chính xác. Đáng lẽ phải nói như mọi người rằng: khi trời đẹp, người ta thấy nhiều người đi dạo chơi, thì ông Pru-đông lại bảo người ta đi dạo chơi để có thể bảo đảm trời đẹp cho người ta.

  4. #24
    Ngày tham gia
    Nov 2015
    Bài viết
    0
    Cái mà ông Pru-đông lấy làm kết quả của cái giá trị trao đổi, mà thời gian lao động đã quy định một cách tiên nghiệm, chỉ có thể chứng minh bằng một quy luật đại để như thế này:

    Từ nay về sau các sản phẩm sẽ được trao đổi hoàn toàn theo thời gian lao động mà chúng đã hao phí. Mặc dù tỷ lệ giữa cung và cầu là như thế nào chăng nữa, sự trao đổi hàng hoá vẫn luôn luôn tiến hành như là chúng đã được sản xuất ra một cách tỷ lệ với số cầu. Ông Pru-đông hãy cứ đảm nhận lấy việc nêu lên và làm ra một quy luật như thế đi, trong trường hợp đó chúng ta sẽ không yêu cầu ông ta phải chứng minh. Trái lại, nếu như ông ta vẫn muốn chứng minh học thuyết của mình, không phải với tư cách là nhà lập pháp, mà là nhà kinh tế học, thì ông ta cần phải chứng minh rằng thời gian cần thiết để tạo ra một hàng hoá biểu thị một cách đúng đắn mức độ hữu ích của nó và chỉ rõ quan hệ tỷ lệ của nó với số cầu và, do đó, với toàn bộ của cải. Trong trường hợp ấy, nếu một sản phẩm được bán ra theo một giá cả
    bằng chi phí sản xuất của nó, thì cung và cầu luôn luôn sẽ cân đối với nhau; bởi vì giả định rằng chi phí sản xuất được coi như là biểu thị quan hệ thực giữa cung và cầu.

    Thật ra, ông Pru-đông cố chứng minh rằng thời gian lao động cần thiết để tạo ra một sản phẩm biểu thị tỷ lệ đúng đắn của nó so với nhu cầu, thành thử những cái mà sản xuất hao phí ít thời gian nhất, là những cái trực tiếp có ích nhất, và cứ như thế mà tiếp tục. Theo học thuyết ấy thì chỉ việc sản xuất ra một xa xỉ phẩm nào đó cũng đã chứng minh được rằng xã hội có thời gian dư thừa cho phép nó thoả mãn một nhu cầu xa xỉ nhất định.

    Về bằng chứng cho luận điểm của mình, ông Pru-đông có ngay bằng chứng ấy khi nhận xét rằng những vật có ích nhất đều đòi hỏi ít thời gian sản xuất nhất, rằng xã hội bao giờ cũng bắt đầu từ những ngành sản xuất dễ dàng nhất, và từng bước, xã hội "đi vào sản xuất những vật hao phí nhiều thời gian lao động nhất và phù hợp với những nhu cầu cao hơn".

    Ông Pru-đông đã lấy thí dụ của ông Đuy-noay-ê về công nghiệp khai thác, - hái lượm, chăn nuôi, săn bắn, đánh cá, v.v., - đó là các ngành công nghiệp giản đơn nhất, ít tốn kém nhất và con người đã bắt đầu từ đó ngay "ngày đầu tiên của sự sáng tạo lần thứ hai ra nó". Ngày đầu tiên của sự sáng tạo lần thứ nhất ra nó được ghi trong Sáng thế ký. Sáng thế ký cho ta thấy rằng Thượng đế là nhà công nghiệp đầu tiên của thế giới.

    Trên thực tế, sự việc đã diễn ra khác hẳn điều mà ông Pru-đông nghĩ. Ngay buổi đầu của nền văn minh, sản xuất đã bắt đầu xây dựng trên sự đối kháng giữa các đẳng cấp, các tầng lớp, các giai cấp, cuối cùng, trên sự đối kháng giữa lao động tích lũy và lao động trực tiếp. Không có đối kháng thì không có tiến bộ. Đó là quy luật mà nền văn minh đã tuân theo cho đến ngày nay. Cho
    đến ngày nay lực lượng sản xuất đã phát triển nhờ có chế độ đối kháng giai cấp ấy. Nếu bây giờ lại nói rằng, bởi vì tất cả mọi nhu cầu của tất cả những người lao động đã được thoả mãn, nên người ta có thể tiến hành công việc tạo ra những sản phẩm cao cấp hơn, tiến hành những ngành công nghiệp phức tạp hơn, thì như vậy tức là không đếm xỉa gì đến đối kháng giai cấp và là đảo lộn toàn bộ quá trình phát triển lịch sử. Chẳng khác nào người ta muốn nói rằng, bởi vì người ta nuôi cá chình trong những ao nhân tạo, dưới thời các hoàng đế La Mã, nên người ta đã có thực phẩm để nuôi sống một cách dồi dào toàn thể dân cư La Mã; thực ra thì trái hẳn lại, nhân dân La Mã không có đủ tiền để mua bánh mì, và những nhà quý tộc La Mã thì không thiếu người nô lệ để đưa họ làm thức ăn cho cá chình.

  5. #25
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0
    Giá cả thực phẩm đã tăng lên gần như một cách liên tục, còn giá cả công nghiệp phẩm và xa xỉ phẩm đã hạ xuống gần như một cách liên tục. Lấy bản thân nông nghiệp mà nói: những vật phẩm cần thiết nhất, như lúa mì, thịt v.v., đều tăng giá, còn bông, đường, cà phê, v.v., thì không ngừng hạ giá theo một tỷ lệ kinh người. Và ngay trong số những thực phẩm thực thụ thì những xa xỉ phẩm như rau ác-ti-sô, măng tây, v.v., ngày nay lại tương đối rẻ hơn những thực phẩm cần thiết nhất. Trong thời đại chúng ta, cái dư thừa dễ sản xuất hơn cái cần thiết. Cuối cùng, trong những thời đại lịch sử khác nhau, những quan hệ tương hỗ của giá cả không những là khác nhau, mà còn trực tiếp đối lập với nhau nữa. Trong suốt cả thời trung cổ, sản phẩm nông nghiệp tương đối rẻ hơn sản phẩm công nghiệp; trong thời cận đại, chúng theo tỷ lệ ngược với nhau. Phải chăng vì thế mà, từ thời trung cổ tính hữu ích của sản phẩm nông nghiệp đã giảm bớt?

    Việc sử dụng sản phẩm là do những điều kiện xã hội của những người tiêu dùng quyết định, và bản thân những điều kiện ấy thì lại dựa trên đối kháng giai cấp.

    Bông, khoai tây và rượu mạnh là những vật phẩm được dùng rộng rãi nhất. Khoai tây đã sản sinh ra bệnh tràng nhạc; bông đã đánh đuổi phần lớn lanh và len, mặc dù, trong nhiều trường hợp, len và lanh có một ích lợi lớn hơn bông, dù chỉ là về mặt vệ sinh; cuối cùng, rượu mạnh đã thắng bia và rượu vang, mặc dù rượu mạnh dùng làm thực phẩm được mọi người công nhận là một thứ thuốc độc. Trong suốt cả một thế kỷ, các chính phủ đã uổng công đấu tranh chống thứ thuốc phiện này của châu Âu; nhưng kinh tế đã thắng, - nó buộc sự tiêu dùng phải tuân theo những quy luật của nó.

    Vậy thì tại sao bông, khoai tây và rượu mạnh lại là những cột trụ của xã hội tư sản? Bởi vì, để sản xuất ra chúng, cần dùng ít lao động nhất, và do đó giá cả của chúng cũng hạ nhất. Tại sao mức tối thiểu của giá cả lại quy định mức tối đa của sự tiêu dùng? Phải chăng là do tính hữu ích tuyệt đối của những vật phẩm ấy, tính hữu ích cố hữu của chúng, tính hữu ích của chúng về mặt chúng có thể thoả mãn đầy đủ nhất những nhu cầu của người công nhân với tư cách là con người, chứ không phải của con người với tư cách là công nhân? Không, đó chính là vì, trong một xã hội dựa trên sự khốn cùng, những sản phẩm khốn khổ nhất lại có cái ưu thế tất yếu là phục vụ cho tiêu dùng của đại đa số quần chúng.

    Nếu bây giờ nói: vì những cái rẻ tiền nhất thì được sử dụng nhiều nhất, nên chúng phải có ích lớn nhất, thì cũng tức là nói: việc sử dụng rượu mạnh rất rộng rãi, do chi phí sản xuất ra nó ít, là bằng chứng xác thực nhất về tính hữu ích của nó; cũng như là nói với người vô sản rằng khoai tây đối với anh ta bổ hơn thịt; tức là chấp nhận tình hình hiện thời; cuối cùng, tức là, cùng với ông Pru-đông, ca tụng một xã hội mà không hiểu biết xã hội ấy.

    Trong một xã hội tương lai, trong đó đối kháng giai cấp đã chấm dứt, giai cấp không còn nữa, thì sự tiêu dùng không còn do mức tối thiểu của thời gian sản xuất quyết định; ngược lại, thời gian sản xuất xã hội mà người ta dành cho những vật phẩm khác nhau sẽ do mức độ hữu ích cho xã hội của chúng quyết định.

  6. #26
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0
    Tuy nhiên, chúng ta hãy trở lại với luận điểm của ông Pru-đông. Nếu thời gian lao động cần thiết cho việc sản xuất ra một vật phẩm hoàn toàn không biểu thị mức độ hữu ích của nó, thì giá trị trao đổi của cùng một vật phẩm ấy, do thời gian lao động bỏ vào đó đã quyết định trước rồi, sẽ không bao giờ có thể điều tiết được tỷ lệ đúng đắn giữa cung với cầu, tức là quan hệ tỷ lệ theo nghĩa mà ông Pru-đông hiện gán cho chữ ấy.

    Hoàn toàn không phải là việc bán một sản phẩm nào đó theo giá cả của những chi phí sản xuất của nó, cấu thành nên "quan hệ tỷ lệ" giữa cung và cầu, tức là phần tỷ lệ của sản phẩm đó trong toàn bộ nền sản xuất; mà chính là những biến động của cung và cầu đã chỉ cho người sản xuất biết số lượng phải sản xuất ra một hàng hoá nhất định để ít ra cũng có thể thu hồi lại được các chi phí sản xuất. Và vì những biến động ấy xảy ra liên tục, nên trong các ngành công nghiệp khác nhau, cũng liên tục diễn ra việc rút vốn ra và bỏ vốn vào.

    "Chính là người ta chỉ căn cứ vào tình hình biến động như thế để bỏ tư bản vào việc sản xuất những hàng hoá khác nhau mà thị trường yêu cầu, theo tỷ lệ thích đáng, chứ không quá. Do giá cả tăng hay giảm mà lợi nhuận tăng lên quá mức phổ biến của nó hay hạ xuống dưới mức phổ biến ấy, và do đó tư bản được bỏ vào một ngành sản xuất cá biệt hay rút ra khỏi ngành đó tuỳ theo sự biến động này hay biến động kia xảy ra trong ngành sản xuất ấy". - "Nếu chúng ta xem xét thị trường của những thành phố lớn thì chúng ta sẽ thấy những thị trường ấy được cung cấp một cách đều đặn biết bao về đủ thứ hàng hoá ở trong nước hay của nước ngoài, theo số lượng cần thiết, dù số cầu về những hàng hoá ấy có khác nhau đến mấy chăng nữa, do hứng thú và sở thích khác nhau hay là do số dân thay đổi, mà không phải thường có nạn ứ hàng vì cung cấp quá nhiều, cũng như nạn đắt đỏ quá đáng vì cung không đủ so với cầu; người ta phải thừa nhận rằng nguyên tắc phân phối tư bản trong mỗi ngành công nghiệp, theo những tỷ lệ hết sức thích đáng, mạnh hơn là người ta thường tưởng" (Ri-các-đô, t. I, tr. 105 và 108).

    Nếu ông Pru-đông thừa nhận giá trị sản phẩm là do thời gian lao động quy định, thì ông ta cũng phải thừa nhận rằng chỉ có sự vận động lên xuống trong những xã hội dựa trên trao đổi cá nhân là nhân tố duy nhất biến thời gian lao động trở thành thước đo của giá trị. Không có "quan hệ tỷ lệ" được cấu thành sẵn, mà chỉ có một sự vận động cấu thành quan hệ đó.

    Chúng ta vừa thấy rằng phải nói đến "tính tỷ lệ" như là một kết quả của giá trị do thời gian lao động quy định, theo nghĩa như thế nào thì mới đúng. Bây giờ chúng ta sẽ thấy cái thước đo giá trị bằng thời gian ấy, mà ông Pru-đông gọi là "quy luật về tính tỷ lệ", chuyển hoá thành quy luật phi tỷ lệ như thế nào.

    Bất cứ một phát minh mới nào cho phép người ta sản xuất trong một giờ cái mà trước đây sản xuất trong hai giờ, cũng đều làm giảm giá trị tất cả những sản phẩm cùng loại có trên thị trường. Cuộc cạnh tranh bắt buộc người sản xuất phải bán sản phẩm của hai giờ không được đắt hơn sản phẩm của một giờ. Cạnh tranh thực hiện quy luật theo đó giá trị tương đối của một sản phẩm là do thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra nó quy định. Như vậy thời gian lao động dùng làm thước đo cho giá trị trao đổi trở thành quy luật không ngừng giảm giá lao động. Không chỉ có thế mà thôi. Sự giảm giá phổ biến không những xảy ra với hàng hoá đưa ra thị trường, mà còn xảy ra với cả những công cụ sản xuất và với toàn bộ xưởng máy nữa. Điều đó đã được Ri-các-đô vạch ra khi ông nói:
    "Bằng cách làm cho sản xuất không ngừng được dễ dàng hơn, chúng ta không ngừng làm cho giá trị của một vài vật phẩm sản xuất ra trước đây giảm xuống" (t. II, tr. 59).

    Xi-xmôn-đi còn đi xa hơn nữa. Ông ta thấy "giá trị được cấu thành" bởi thời gian lao động ấy là nguồn gốc của tất cả những mâu thuẫn của công nghiệp và thương nghiệp hiện đại.
    "Ông ta nói rằng, giá trị trao đổi, suy đến cùng, bao giờ cũng được quy định theo số lượng lao động cần thiết để có được vật phẩm đó; không phải số lượng lao động hiện được hao phí để làm ra vật phẩm mà là số lượng lao động từ nay được hao phí để làm ra vật phẩm với những tư liệu sản xuất có lẽ hoàn thiện hơn; và số lượng ấy, tuy là khó xác định chính xác, luôn luôn do cuộc cạnh tranh xác lập một cách sát đúng... Chính là dựa trên cơ sở đó mà người ta tính lượng cầu về giá cả của người bán cũng như lượng cung về giá cả của người mua. Người bán có lẽ quả quyết rằng vật phẩm đã tốn phí mười ngày lao động, nhưng nếu người mua cho rằng vật phẩm ấy từ nay có thể làm trong tám ngày lao động, nếu cuộc cạnh tranh đem lại được bằng chứng như thế cho cả hai người, thì giá trị sẽ giảm xuống còn tám ngày, và giá cả thị trường sẽ xác lập chỉ ở mức đó mà thôi. Quả là cả hai người giao dịch đều hiểu rõ rằng vật phẩm là có ích, người ta muốn có vật phẩm ấy, và nếu không có nhu cầu về vật phẩm ấy thì đã chẳng có việc bán ra, thế nhưng việc định giá vật phẩm không giữ một quan hệ nào với tính hữu ích của nó cả" ("Khái luận" v.v., t.II, tr.267, xuất bản ở Bruy-xen).

  7. #27
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0
    Một điều rất quan trọng cần phải chú ý là cái quy định giá trị của vật phẩm không phải là thời gian sản xuất ra nó, mà là thời gian tối thiểu có khả năng sản xuất ra vật phẩm ấy, và mức tối thiểu ấy do cuộc cạnh tranh xác định. Hãy tạm thời giả định rằng không còn có cạnh tranh nữa và do đó không còn có cách nào để xác định mức tối thiểu của lao động cần thiết cho việc sản xuất ra một vật phẩm, thì lúc đó tình hình sẽ như thế nào? Theo học thuyết của ông Pru-đông, chỉ cần bỏ ra sáu giờ lao động để sản xuất một vật phẩm là người ta có quyền đòi người khác đổi cho mình sáu lần nhiều hơn so với người chỉ bỏ ra một giờ để sản xuất ra cùng một vật phẩm ấy.

    Chúng ta thấy một quan hệ phi tỷ lệ chứ không phải là một "quan hệ tỷ lệ" nữa, nếu chúng ta vẫn nhất thiết muốn ở trong lĩnh vực những quan hệ bất kỳ, tốt hay xấu.

    Việc không ngừng giảm giá trị lao động chỉ là một mặt, một kết quả của sự đánh giá hàng hoá theo thời gian lao động. Tình trạng giá cả nâng cao quá đáng, sản xuất quá thừa và nhiều hiện tượng hỗn loạn khác trong sản xuất, đều có thể giải thích bằng phương thức đánh giá ấy.

    Thế nhưng, việc lấy thời gian lao động làm thước đo cho giá trị - điều làm cho ông Pru-đông rất thích thú, liệu có sản sinh ra nhiều vẻ tỷ lệ khác nhau của các sản phẩm hay không?

    Trái hẳn lại, đi theo sau tình trạng này, sự độc quyền với cả tính chất đơn điệu tẻ nhạt của nó đã đến xâm nhập trong lĩnh vực các sản phẩm, cũng giống như - cái mà ai cũng thấy và cũng biết - sự độc quyền đã xâm nhập trong lĩnh vực các công cụ sản xuất vậy. Chỉ có vài ngành công nghiệp, như công nghiệp vải bông, là tiến bộ rất nhanh chóng. Kết quả tự nhiên của sự tiến bộ ấy là sản phẩm của công nghiệp vải bông, chẳng hạn, hạ giá nhanh chóng; nhưng giá bông càng hạ xuống thì giá lanh lại càng lên cao so với giá bông. Kết quả sẽ như thế nào? Bông sẽ thay thế lanh. Như vậy lanh đã bị gạt ra khỏi hầu hết ở Bắc Mỹ. Thế là bông đã ngự trị, chứ không phải là nhiều vẻ tỷ lệ của các sản phẩm.

    Vậy, về cái "quan hệ tỷ lệ" ấy còn lại cái gì nữa? Chẳng còn gì, ngoài nguyện vọng của một người lương thiện, muốn rằng các hàng hoá được sản xuất theo những tỷ lệ như thế nào đó để chúng có thể bán ra theo giá cả công bằng. Bao giờ cũng vậy, những người tư sản tốt bụng và những nhà kinh tế học từ thiện, cũng đều thích nói ra cái nguyện vọng ngây thơ ấy.

    Ta hãy nhường lời cho ông già Boa-ghin-be:
    "Ông ta nói, giá cả các hàng hoá phải luôn luôn theo tỷ lệ, vì chỉ có sự hoà hợp đó mới làm cho các hàng hoá có thể cùng tồn tại được, bất cứ lúc nào cũng trao đổi cho nhau được" (khả năng trao đổi không ngừng, theo ông Pru-đông, là như thế đó), "và mới làm cho các hàng hoá luôn luôn tái sản xuất lẫn nhau được... vì của cải không phải là cái gì khác ngoài sự trao đổi không ngừng giữa người với người, xí nghiệp với xí nghiệp, v.v., cho nên thật là mù quáng ghê gớm nếu như người ta muốn đi tìm nguồn gốc của sự khốn cùng ở chỗ khác chứ không phải ở việc phá vỡ sự trao đổi như thế, một sự phá vỡ xảy ra do các tỷ lệ của giá cả bị sai lệch đi" ("Luận văn về bản chất sự giàu có", Nhà xuất bản Đe-rơ46).

    Ta hãy nghe một nhà kinh tế học hiện đại nữa:
    "Một quy luật quan trọng mà người ta phải ứng dụng vào sản xuất là quy luật tỷ lệ (the law of proportion), chỉ có quy luật ấy mới có thể duy trì tính bất biến của giá trị... Vật ngang giá phải được bảo đảm... Trong những thời kỳ khác nhau, tất cả các nước đều dùng nhiều quy định và hạn chế về thương mại để cố thực hiện, đến một mức độ nào đó, quy luật tỷ lệ ấy; nhưng tính ích kỷ, vốn là bản tính của con người, đã xui khiến con người đảo lộn tất cả cái chế độ điều tiết ấy. Một nền sản xuất cân đối (proportionate production), đó là sự thực hiện của khoa học kinh tế xã hội chân chính", (U.Át-kin-xơn. "Những nguyên lý của khoa kinh tế chính trị", Luân Đôn, 1840, tr. 170 - 19547).

  8. #28
    Ngày tham gia
    Nov 2015
    Bài viết
    0
    Fuit Troja (1) ! Cái tỷ lệ đúng đắn ấy giữa cung và cầu - bây giờ nó lại là đối tượng của bao nhiêu điều mong ước, - từ lâu đã không còn nữa. Nó đã trở thành cũ kỹ mất rồi. Nó chỉ có thể tồn tại vào những thời đại mà các tư liệu sản xuất rất có hạn, mà sự trao đổi tiến hành trong những phạm vi cực kỳ nhỏ hẹp. Với việc sản sinh ra đại công nghiệp, tỷ lệ đúng đắn ấy tất phải chấm dứt, và sản xuất tất nhiên buộc phải không ngừng lần lượt trải qua các giai đoạn phồn vinh, suy thoái, khủng hoảng, đình trệ, rồi lại phồn vinh, v.v., theo những quy luật của tự nhiên.

    Những người, như Xi-xmôn-đi, muốn trở về tính tỷ lệ đúng đắn trong sản xuất mà vẫn duy trì những cơ sở hiện thời của xã hội, đều là phản động, bởi vì, để được triệt để, họ tất cũng muốn khôi phục lại tất cả những điều kiện khác của công nghiệp của thời đại đã qua.

    Cái gì giữ sản xuất theo những tỷ lệ đúng đắn hay gần đúng đắn? Chính là cầu, cầu chi phối cung và đi trước cung. Sản xuất đi theo từng bước sự tiêu dùng. Chính những công cụ mà đại công nghiệp sử dụng bắt buộc đại công nghiệp phải sản xuất trên những quy mô ngày càng rộng lớn, cho nên đại công nghiệp không còn có thể chờ đợi cầu được nữa. Sản xuất đi trước cầu, cung cưỡng bức chế ngự cầu.

    Trong xã hội hiện thời, trong nền công nghiệp dựa trên sự trao đổi cá nhân, trạng thái vô chính phủ của sản xuất là nguồn gốc của bao nhiêu sự nghèo khốn, đồng thời cũng là nguồn gốc của mọi sự tiến bộ.

    Vậy thì chỉ có một trong hai điều:

    hoặc là anh muốn có những tỷ lệ đúng đắn của những thế kỷ đã qua với những tư liệu sản xuất của thời đại chúng ta, như vậy thì anh vừa là phản động vừa là không tưởng.

    hoặc là anh muốn có sự tiến bộ mà không có trạng thái vô chính phủ; như vậy thì, để duy trì các lực lượng sản xuất, anh hãy bỏ những việc trao đổi cá nhân đi.

    Sự trao đổi cá nhân chỉ phù hợp với nền công nghiệp nhỏ của những thế kỷ đã qua, và với "tính tỷ lệ đúng đắn" của riêng nó, hoặc là chỉ phù hợp với nền đại công nghiệp và với cả cái bầu đoàn khốn cùng và trạng thái vô chính phủ đi theo nó.

    Tóm lại, sự quy định giá trị theo thời gian lao động, tức là công thức mà ông Pru-đông đề ra cho chúng ta như là công thức tái tạo tương lai như vậy chẳng phải là cái gì khác, mà chỉ là biểu hiện khoa học của những quan hệ kinh tế của xã hội hiện thời, như Ri-các-đô đã chứng minh một cách rõ ràng và cụ thể trước ông Pru-đông khá lâu rồi.

    Thế nhưng, phải chăng là ít ra thì sự ứng dụng "bình quân chủ nghĩa" công thức ấy cũng là công lao của ông Pru-đông ? Phải chăng ông ta là người đầu tiên đã nghĩ ra việc cải tạo xã hội bằng cách biến tất cả mọi người thành những người lao động trực tiếp, trao đổi cho nhau những số lượng lao động bằng nhau? Phải chăng chính ông ta là người có nhiệm vụ chỉ trích những người cộng sản - những người không hiểu biết tí gì ấy về khoa kinh tế chính trị, những "người ngu xuẩn không thể cải hoá được" ấy, những "người mơ mộng thiên đường" ấy - là đã không tìm ra được trước ông ta cái "giải pháp ấy của vấn đề giai cấp vô sản"?

    ---------------------------------------------------------------------------
    (1): Thành Tơ-roa không còn nữa !

  9. #29
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0
    Những ai đã hiểu biết ít nhiều về sự phát triển của khoa kinh tế chính trị ở nước Anh, đều không thể không biết rằng hầu hết những người xã hội chủ nghĩa ở nước ấy, trong những thời kỳ khác nhau, đã đề nghị áp dụng học thuyết Ri-các-đô một cách bình quân chủ nghĩa. Chúng ta có thể chỉ ra cho ông Pru-đông: "Khoa kinh tế chính trị" của Hốt-xkin, 182748, các tác phẩm: Uy-li-am, Tôm-xơn, "Nghiên cứu về những nguyên lý phân phối của cải góp phần lớn nhất cho hạnh phúc của con người", 1824; T.R.Ét-mơn-xơ "Kinh tế thực tiễn, đạo đức và chính trị", 182849, v.v., và còn bốn trang tên các tác phẩm loại đó. Chúng ta chỉ cần nhường lời cho một người cộng sản Anh là ông Brây cũng đủ. Chúng ta hãy rút ra những đoạn có tính chất quyết định của tác phẩm đáng chú ý của ông "Sự bất bình đẳng trong lao động và những biện pháp nhằm xoá bỏ nó", Lít-xơ, 183950, và chúng ta sẽ dừng lại ở đó khá lâu, trước hết là vì ở Pháp người ta ít biết đến ông Brây, sau nữa là vì chúng tôi tưởng đã tìm thấy trong những tác phẩm của nhà văn này cái thìa khoá của những tác phẩm trước đây, hiện nay và sau này của ông Pru-đông.

    "Biện pháp duy nhất để đạt tới chân lý, trước hết chính là đề cập ngay đến những nguyên tắc cơ bản. Chúng ta hãy lập tức đi ngược trở về nguồn gốc sinh ra bản thân các chính phủ. Đi về nguồn gốc sự vật như thế, chúng ta sẽ thấy rằng mọi hình thức cai trị, mọi bất công xã hội và chính trị đều bắt nguồn từ chế độ xã hội hiện hành - từ chế độ sở hữu với hình thái hiện đại của nó (the institution of property as it at present exists). Bởi vậy, muốn vĩnh viễn chấm dứt những sự bất công và khốn cùng ngày nay, phải đánh đổ hoàn toàn chế độ xã hội hiện nay... Đả kích những nhà kinh tế học trên lĩnh vực riêng của họ và với những vũ khí riêng của họ, chúng ta sẽ tránh được sự nói suông vô nghĩa về những nhà mộng tưởng và những nhà khống luận mà họ luôn luôn sẵn sàng dùng tới. Nếu họ không muốn phủ nhận hay bác bỏ những chân lý và nguyên tắc đã được công nhận, mà họ dựa vào để làm cơ sở cho những luận cứ riêng của họ thì họ sẽ không thể nào gạt bỏ được những kết luận mà chúng ta đi đến bằng phương pháp ấy" (Brây, tr. 17 và 41). "Chỉ có lao động mới tạo nên giá trị (It is labour alone which bestows value)... Mỗi người đều có một quyền lợi không thể tranh cãi được đối với tất cả những cái gì mà lao
    động lương thiện của người đó có thể làm ra. Chiếm hữu kết quả của lao động của mình như vậy, người ấy không phạm một sự bất công nào đối với những người khác; bởi vì người ấy không hề xâm lấn vào quyền lợi của bất cứ người nào khác, mà người khác này cũng được hành động như thế... Tất cả những khái niệm về bề trên và bề dưới, về chủ và người làm thuê, đều sinh ra do chỗ người ta đã coi thường những nguyên tắc cơ bản, và do chỗ, vì lẽ đó mà nẩy ra tình trạng không bình đẳng về tài sản (and to the consequent rise of inequality of possessions). Chừng nào tình trạng không bình đẳng ấy còn được duy trì, thì sẽ không thể nào nhổ sạch được những tư tưởng như thế hay đánh đổ được những thể chế dựa trên những tư tưởng ấy. Từ trước đến nay, nhiều người vẫn có cái hy vọng hão là cứu chữa được một tình trạng trái với tự nhiên, như tình trạng ngày nay, bằng cách xoá bỏ tình trạng không bình đẳng hiện hành mà đồng thời không đả động gì đến nguyên nhân của tình trạng ấy; nhưng rồi đây chúng ta sẽ chứng minh rằng chính phủ không phải là một nguyên nhân, mà là một kết quả, chính phủ không tạo ra kết quả đó, mà ngược lại, cái được tạo ra - tóm lại, nó là kết quả của tình trạng không bình đẳng về tài sản (the offspring of inequality of possessions), và tình trạng không bình đẳng về tài sản gắn liền với chế độ xã hội hiện thời" (Brây, tr. 33, 36 và 37).

  10. #30
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0
    Sau khi đã bác bỏ những ý kiến của các nhà kinh tế học phản đối chủ nghĩa cộng sản, ông Brây tiếp tục như sau:

    "Nếu, một mặt, sự thay đổi về tính cách con người là cần thiết để có thể xây dựng thành công một chế độ xã hội dựa trên sự cộng đồng về tài sản trong hình thái hoàn thiện nhất của nó; nếu, mặt khác, chế độ hiện thời không có những điều kiện cũng như những phương tiện cần thiết để thực hiện sự thay đổi tính cách ấy và chuẩn bị cho người ta tiến tới một trạng thái tốt hơn mà tất cả chúng ta đều mong muốn, - thì rõ ràng là tình hình nhất định vẫn cứ phải tiếp tục tồn tại như bây giờ, trừ phi người ta tìm ra được và thực hiện một giai đoạn xã hội quá độ nào đó, - một quá trình vừa có quan hệ với chế độ hiện thời cũng như có quan hệ với chế độ tương lai (chế độ dựa trên sự cộng đồng về tài sản), - một giai đoạn dừng chân tạm thời mà xã hội có thể đi tới với tất cả những tệ lậu và những sự điên cuồng của nó, để rồi sau đó xã hội sẽ từ giã giai đoạn đó, mang theo nhiều phẩm chất và thuộc tính, là những điều kiện sinh tồn của chế độ cộng đồng ấy" (Brây, tr. 134).

    "Toàn bộ quá trình sẽ chỉ đòi hỏi sự hợp tác dưới hình thái giản đơn nhất của nó mà thôi... Những chi phí sản xuất sẽ quy định trong bất cứ điều kiện nào, giá trị của sản phẩm, và những giá trị bằng nhau sẽ luôn luôn được trao đổi với những giá trị bằng nhau. Trong hai người, nếu người thứ nhất làm việc trong cả một tuần lễ, còn người thứ hai trong nửa tuần lễ, thì người thứ nhất sẽ nhận được gấp đôi phần thù lao của người kia, nhưng phần trả hơn cho người thứ nhất không làm thiệt hại cho người kia: phần thiệt thòi mà người thứ hai phải chịu quyết không có lợi cho người thứ nhất. Mỗi người sẽ trao đổi tiền công mà cá nhân mình nhận được với những vật phẩm có giá trị bằng tiền công của mình, và trong bất cứ trường hợp nào, lợi nhuận mà một người hay một ngành công nghiệp thực hiện được đều không thể làm thiệt thòi cho người khác hay ngành công nghiệp khác. Lao động của mỗi cá nhân sẽ là thước đo duy nhất của lợi nhuận và của sự thua lỗ của cá nhân ấy...

    ... Dựa vào những trạm mua bán (boards of trade) trung ương hay địa phương, người ta sẽ quy định số lượng những vật phẩm khác nhau mà tiêu dùng đòi hỏi, và giá trị tương đối của mỗi vật phẩm so với những vật phẩm khác (số công nhân cần dùng trong những ngành lao động khác nhau) tóm lại, tất cả những cái gì có quan hệ đến sản xuất và phân phối xã hội. Những công việc ấy sẽ tiến hành đối với một nước, cũng nhanh chóng và dễ dàng như, dưới chế độ hiện thời, đối với một công ty cá biệt vậy... Những cá nhân sẽ tập hợp lại thành gia đình, những gia đình sẽ tập hợp lại thành công xã, như dưới chế độ hiện thời... Người ta cũng sẽ không xoá bỏ một cách trực tiếp sự phân bố dân cư ở thành thị và nông thôn, dù sự phân bố ấy thật là không tốt gì. Trong tập đoàn ấy, mỗi một cá nhân vẫn tiếp tục có quyền tự do - như bây giờ - muốn tích lũy bao nhiêu cũng được, và sử dụng những tích lũy ấy như thế nào là tùy theo ý mình... Như vậy xã hội của chúng ta sẽ là một công ty cổ phần lớn, bao gồm vô số công ty cổ phần nhỏ hơn, tất cả đều lao động, sản xuất và trao đổi sản phẩm của họ trên cơ sở bình đẳng hoàn toàn... Hệ thống công ty cổ phần mới của chúng ta chỉ là một sự nhượng bộ đối với xã hội hiện thời để chuyển lên chủ nghĩa cộng sản, một sự nhượng bộ nhằm làm cho quyền sở hữu cá nhân về các sản phẩm có thể song song tồn tại với quyền sở hữu công cộng về lực lượng sản xuất, - hệ thống mới ấy làm cho vận mệnh của mỗi cá nhân tùy thuộc vào hoạt động riêng của mình, và đem lại cho mỗi cá nhân một phần hưởng thụ bằng nhau về tất cả những lợi ích do tự nhiên và sự tiến bộ của kỹ thuật mang lại. Vì thế, nó có thể ứng dụng vào xã hội trong tình trạng hiện nay và nó có thể chuẩn bị cho xã hội ấy cho những sự biến đổi tương lai" (Brây, tr. 158, 160, 162, 168, 194 và 199).

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •