Kết quả 1 đến 5 của 5

  1. #2
    Ngày tham gia
    Apr 2016
    Bài viết
    0
    Thời kì Phục Hưng chia làm 2 giai đoạn là TK 14 tại Ý và TK 16 tại Bắc Âu:

    Thời kỳ Phục Hưng (chữ Hán: 復興, có gốc từ tiếng Pháp Renaissance ([ʀənɛˈsɑ̃s], nghĩa là sự tái sinh), còn gọi là Il Rinascimento ([riˌnaʃːiˈmento], tiếng Ý), là cuộc tái sinh các giá trị nghệ thuật, tư tưởng, khoa học của thời kì Cổ đại và sự sống lại, phát triển rực rỡ của nền văn minh phương Tây. Phong trào Phục Hưng thường được coi bắt đầu từ khoảng thế kỉ 14 tại Ý và thế kỉ 16 tại Bắc Âu. Nó cũng được coi là đánh dấu giai đoạn chuyển tiếp của châu Âu từ Thời kỳ Trung cổ sang Thời kỳ Cận đại, cũng như từ Thời kỳ phong kiến sang Thời kỳ tư bản.

    Nguồn gốc và lịch sử

    Thuật ngữ Rinascenza (tái sinh) được nhà sử học Giorgio Vasari dùng ban đầu vào năm 1550 để chỉ sự hồi sinh và phát triển rực rỡ các hoạt động nghệ thuật và khoa học bắt đầu tại Ý vào thế kỷ 13. Sau đó, thuật ngữ Renaissance được Jules Michelet dùng trong tiếng Pháp và nhà sử học Thụy Sỹ Jacob Burckhardt phát triển (khoảng những năm 1860). Tái sinh ở đây có hai nghĩa: một là sự khám phá lại các sách vở cổ điển và đem ứng dụng vào trong khoa học và nghệ thuật; hai là để chỉ kết quả của các hoạt động văn hóa đó mang lại sự hồi sinh cho văn hóa châu Âu nói chung. Như vậy Phục Hưng có thể hiểu theo hai cách chính tuy khác biệt nhưng đều có ý nghĩa là sự tái sinh của nền giáo dục cổ điển Tây phương thông qua sách vở, tài liệu kinh điển của phương Tây và hồi sinh của văn hóa châu Âu nói chung.

    Từ Hán-Việt viết hoa Phục hưng, hay Phục Hưng, là thuật ngữ tương đương với khái niệm này.

    Hồi sinh tinh thần của thời kỳ Cổ đại
    Người đàn ông Vitruvius theo Leonardo da Vinci, một ví dụ tiêu biểu về sự pha trộn giữa nghệ thuật và khoa học vào thời Phục Hưng.
    Người đàn ông Vitruvius theo Leonardo da Vinci, một ví dụ tiêu biểu về sự pha trộn giữa nghệ thuật và khoa học vào thời Phục Hưng.

    Thời kỳ Phục Hưng được gọi như thế vì đặc tính cơ bản của thời kỳ này là sự hồi sinh của tinh thần thời kỳ Cổ đại. Chủ nghĩa Nhân văn chính là phong trào tinh thần cơ bản của thời kỳ này. Việc hồi sinh thể hiện ở chỗ nhiều yếu tố của tư tưởng thời kỳ Cổ đại được tái khám phá và sống lại (văn học, tượng đài kỷ niệm, tác phẩm điêu khắc, triết học,...).

    Tiên đề cho tư tưởng mới của thời kỳ Phục Hưng là những ý tưởng tự tin của các nhà thơ người Ý của thế kỷ 14 như Francesco Petrarca, người thông qua các nghiên cứu rộng lớn về các nhà văn thời kỳ Cổ đại và với Chủ nghĩa Cá nhân của ông đã cổ động cho niềm tin về giá trị của sự đào tạo nhân văn và ủng hộ cho việc nghiêm cứu về ngôn ngữ, văn học, lịch sử và triết học bên ngoài quan hệ với tôn giáo.

    Ảnh hưởng của những học giả nói tiếng Hy Lạp cũng rất đáng kể. Một số học giả đến Ý trong thế kỷ 13 và thế kỷ 14 từ Đế quốc Byzantin. Đặc biệt là sau khi người Thổ Nhĩ Kỳ chinh phục Constantinople vào năm 1453 thì càng có nhiều học giả đến Venezia (tiếng Anh: Venice) và những thành phố Ý khác, những người đã mang theo kiến thức về nền văn hóa thời Cổ đại đã được lưu trữ gần 1.000 năm trong Đế quốc Byzantin sau khi Đế quốc Tây La Mã suy tàn. Cho đến năm 1400 Homer, Herodot, Platon và Aristoteles vẫn còn được rất nhiều người nhắc đến trong Đế quốc Byzantin. Một vài năm trước khi Đế quốc Byzantin sụp đổ, Giovanni Aurispa đã đến Constantinople và mang về Ý trên 200 bản viết tay các tác phẩm văn học ngoại đạo.

    Trong một nghĩa rộng người ta hiểu Phục Hưng là sự hồi sinh của thời kỳ Cổ đại với các ảnh hưởng của thời kỳ này đến khoa học, văn học, xã hội, cuộc sống của những tầng lớp thượng lưu và sự phát triển của con người đi đến tự do cá nhân ngược lại với chế độ đẳng cấp của thời kỳ Trung cổ. Trong nghĩa hẹp hơn Phục Hưng là một thời kỳ của lịch sử nghệ thuật.

    Tên gọi trong tiếng Ý, rinascita, theo nghĩa cho khái niệm của một thời kỳ, đã có từ Giorgio Vasari, người đã viết một trong những tác phẩm miêu tả các nhà nghệ thuật Phục Hưng quan trọng nhất. Vasari chia sự phát triển của nghệ thuật ra làm 3 thời kỳ:

    1. Thời kỳ rực rỡ của Cổ đại Hy Lạp – La Mã
    2. Thời kỳ suy tàn trung gian bắt đầu thời kỳ Trung Cổ
    3. Thời kỳ hồi sinh các nghệ thuật và tinh thần Cổ đại trong thời kỳ Trung cổ từ khoảng năm 1250.

    Vì thế mà các nhà điêu khắc, kiến trúc sư và họa sĩ người Ý, trong số đó có Arnolfo di Cambio, Nicolò Pisano, Cimabue hay Giotto di Bondone, ngay từ nửa sau của thế kỷ 13, "trong những thời kỳ đen tối nhất, đã chỉ ra cho những người tài giỏi đi sau con đường dẫn đến hoàn mỹ".

    [sửa] Nghệ thuật
    Leonardo da Vinci, Người đàn bà và con chồn, Bảo tàng Czartoryski, Kraków, Ba Lan
    Leonardo da Vinci, Người đàn bà và con chồn, Bảo tàng Czartoryski, Kraków, Ba Lan

    Filippo Brunelleschi, Lorenzo Ghiberti và Donatello là những người mở đường cho hướng đi mới trong nghệ thuật có tiền thân là Nicola Pisano, Giotto di Bondone và những nghệ sĩ khác. Nói chung, ở Ý thời gian khoảng từ 1420 đến 1600 được gọi là thời kỳ Phục Hưng, trong châu Âu còn lại là thời gian từ 1500 đến 1600.

    Bên cạnh sự mô phỏng theo nghệ thuật Cổ đại là việc nghiên cứu thiên nhiên tích cực hơn, một khía cạnh quan trọng trong lịch sử phát triển của nghệ thuật Phục Hưng. Ngay trước Vasari, nhiều nhà thơ như Boccaccio đã khen ngợi họa sĩ Giotto có thể vẽ lại sự vật giống như trong tự nhiên mà không có ai trước ông đạt được. Xu hướng tạo hình sự vật và con người theo tự nhiên từ đấy là một trong những ý muốn chính của các nghệ sĩ. Thế nhưng phải đến thế kỷ 15 thì các nghệ sĩ mới đạt được đến một cách miêu tả theo tự nhiên gần như hoàn hảo. Vì thế mà các sử gia về nghệ thuật thường giới hạn khái niệm Phục Hưng cho các miêu tả nghệ thuật trong thế kỷ 15 và thế kỷ 16.

    Gắn liền với yêu cầu tự nhiên trong nghệ thuật là sự tôn vinh thời kỳ Cổ đại của các nghệ sĩ. Người ta ngưỡng mộ các tác phẩm nghệ thuật thời Cổ đại như là các thí dụ điển hình trong việc miêu tả theo tự nhiên và vì thế là các thí dụ đáng được mô phỏng theo trong lúc tự diễn đạt tự nhiên. Ngoài ra nhà lý thuyết về kiến trúc người Ý, Leone Battista Alberti, còn đòi hỏi các nhà nghệ thuật "không những ngang bằng với các danh nhân thời kỳ Cổ đại mà còn phải cố gắng vượt lên trên họ". Tức là nghệ thuật không những phải diễn đạt lại một cách trung thực thực tế mà còn phải cố gắng cải thiện và làm hoàn hảo tấm gương của tự nhiên.

    Bên cạnh xác định mới về quan hệ của nghệ thuật đối với tự nhiên và việc ngưỡng mộ thời kỳ Cổ đại, thời kỳ Phục Hưng cũng đặt câu hỏi về bản chất của cái đẹp. Các nghệ sĩ cố gắng diễn tả một con người đẹp toàn hảo. Kích thước và tỉ lệ lý tưởng đều đóng một vai trò trong việc diễn tả cơ thể con người trong hội họa và điêu khắc cũng như trong phác thảo kiến trúc. Với cách phối cảnh cổ điển các nghệ sĩ đã phát triển một phương pháp để diễn tả sự rút ngắn trong chiều sâu không gian với tính chính xác của toán học.

    Thông thường người ta chia thời kỳ lịch sử nghệ thuật Phục Hưng, đặc biệt là Phục Hưng Ý, ra làm 3 giai đoạn

    1. Tiền Phục Hưng (tiếng Anh: Early Renaissance)
    2. Đỉnh cao của Phục Hưng (tiếng Anh: High Renaissance)
    3. Hậu Phục Hưng hay Mannerism

    Raffaello - Sistine Madonna
    Raffaello - Sistine Madonna

    Giai đoạn đầu của thời kỳ Phục Hưng (từ khoảng 1420 đến 1490/1500) khởi điểm từ thành phố Firenze (tiếng Anh: Florence) với những bức tượng của Donatello, tranh phù điêu đồng của Ghiberti, bích họa của Masaccio và các công trình xây dựng của Filippo Bruelleschi. Thời gian từ khoảng 1490/1500 cho đến 1520 là đỉnh cao của thời kỳ Phục Hưng. Trung tâm của thời kỳ vươn đến hoàn mỹ và hài hòa cao độ này là thành phố Roma của giáo hoàng. Đây là thời gian của phác thảo kiến trúc cho nhà thờ thánh Peter ở Roma của Bramante, các bức họa nổi tiếng nhất của Leonardo da Vinci, của Raffaello, các bức tượng và bích họa của Michelangelo cũng như các tác phẩm khắc đồng của Albrecht Dürer. Sau đó là thời kỳ Hậu Phục Hưng hay Mannerism với đặc trưng là có nhiều xu hướng nghệ thuật khác nhau. Mannerism có khuynh hướng cường điệu hóa kho tàng hình dáng của Phục Hưng (thí dụ như diễn tả cơ thể con người được kéo dài ra và uốn cong trong một cử động mạnh). Giai đoạn cuối của thời kỳ Hậu Phục Hưng dần dần chuyển sang phong cách Baroque.

    Thế nhưng thời kỳ Phục Hưng không diễn ra theo một khuôn mẫu hoàn toàn giống nhau trên khắp châu Âu. Trong khi tinh thần Phục Hưng bắt đầu rất sớm và đặc biệt nở rộ ở Ý, có ảnh hưởng đều khắp trong hội họa, điêu khắc và kiến trúc thì mãi đến khoảng năm 1500 hay sau đó thời kỳ Phục Hưng mới bắt đầu ở phía Bắc của châu Âu và cũng chỉ chiếm ưu thế một phần, đồng thời mang nhiều tính cách dân tộc. Trong các quốc gia khác ngoài Ý kiến trúc và điêu khắc chịu ảnh hưởng nhiều hơn là hội họa. Tại Pháp và Đức phong cách cổ đại được hòa trộn với nhiều yếu tố dân tộc, nổi bật trong thời kỳ đầu của Phục Hưng hơn là trong thời kỳ Hậu Phục Hưng, thời kỳ mà hình dáng được thể hiện đầy đặn và mạnh mẽ hơn, chuyển đến cường điệu hóa của phong cách Baroque. Phong cách Phục Hưng tại Hà Lan, Ba Lan, Anh và Tây Ban Nha cũng mang sắc thái dân tộc.

    Các nghệ sĩ nổi tiếng trong thời kỳ Phục Hưng

    * Lorenzo Ghiberti (1381–1455)
    * Donatello (1386–1466)
    * Fra Angelico (1387–1455)
    * Paolo Uccello (1397–1475)
    * Hans Multscher (ca. 1400–1467)
    * Masaccio (1401–1428)
    * Leone Battista Alberti (1404–1472)
    * Andrea Mantegna (1431–1506)
    * Andrea del Verrocchio (1436–1488)
    * Israhel van Meckenem Trẻ (1440/45–1503)
    * Donato Bramante (ca. 1444–1514)
    * Sandro Botticelli (1444/1445–1510)
    * Giuliano da Sangallo (1445–1516)
    * Domenico Ghirlandaio (1449–1494)
    * Pietro Perugino (ca. 1448–1523)
    * Leonardo da Vinci (1452–1519)
    * Luca Signorelli (ca. 1450–1523)
    * Andrea Sansovino (1460–1529)
    * Hans Holbein Già (khoảng 1465–1524)
    * Albrecht Dürer (1471–1528)
    * Hans Dürer
    * Stanisław Samostrzelnik
    * Eberhard Rosemberger
    * Francesco Florentino



    * Lucas Cranach Già (1472–1553)
    * Fra Bartolommeo (1474–1517)
    * Michelangelo Buonarroti (1475–1564)
    * Tiziano Vecellio (1477–1576)
    * Giorgione (khoảng 1477–1510)
    * Hans Burgkmair Già (1473 - 1531)
    * Albrecht Altdorfer (1480–1538)
    * Raffaello (1483–1520)
    * Antonio da Sangallo (1485–1546)
    * Andrea del Sarto (1486–1531)
    * Jacopo Sansovino (1486–1570)
    * Correggio (1489–1534)
    * Lucas von Leyden (1494–1533)
    * Hans Holbein Trẻ (khoảng 1497–1543)
    * Heinrich Aldegrever (1502–1555/61)
    * Parmigianino (1503–1540)
    * Lucas Cranach Trẻ (1515–1586)
    * Tintoretto (1518–1594)
    * Pieter Bruegel Già (khoảng 1525–1569)
    * Santi Gucci (1530-1600)
    * Bartolommeo Berrecci
    * Giovanni Baptista di Quadro
    * Bernardo Morando
    * Benedykt từ Sandomierz

    [sửa] Hội họa

    Xem bài chính Hội họa Phục Hưng.

    Tượng David của Michelangelo (1504)
    Tượng David của Michelangelo (1504)

    Phần lớn các bức tranh của nghệ thuật Phục Hưng là các bức tranh thờ và bích họa có nội dung tôn giáo được vẽ cho nhà thờ, tranh với các đề tài trần tục hay thần thoại không mang tính tôn giáo (thí dụ như biểu tượng (tiếng Anh: allegory), huyền thoại anh hùng hay thần thánh, lịch sử Cổ đại) và chân dung cá nhân của những danh nhân đương thời. Bên cạnh đó cũng xuất hiện những tranh vẽ phong cảnh và phong tục đầu tiên, diễn tả cuộc sống thời bấy giờ.

    Chiều sâu của không gian được thiết kế hình học một cách chính xác bằng phương pháp phối cảnh. Thêm vào đó là phương pháp phối cảnh không gian và phối cảnh màu. Người nghệ sĩ diễn tả cơ thể khỏa thân của con người như nghệ thuật khỏa thân bằng các tỷ lệ lý tưởng. Cách cấu trúc tranh cân bằng hài hòa và đối xứng được hỗ trợ bằng những hình dáng tam giác, bán nguyệt hay hình tròn là phong cách cấu trúc thường được ưa chuộng.

    [sửa] Điêu khắc

    Các nhà điêu khắc Phục Hưng sáng tạo nhiều nhất là những tượng đứng và tượng bán thân. Trên các quảng trường thành phố là các tượng đài kỷ niệm thí dụ như các tượng kỵ sĩ. Mộ bia cho danh nhân trong và ngoài đạo liên kết tượng cùng với kiến trúc trở thành một tác phẩm nghệ thuật.

    Các nhà điêu khắc Phục Hưng hướng về các tác phẩm tiêu biểu của thời kỳ Cổ đại khi sáng tác. Bức tượng được làm mô hình toàn diện, con người được biểu diễn khỏa thân, tư thế hai chân thường là theo kiểu Contrapposto cổ điển. Các nghiên cứu về giải phẫu học được dùng để miêu tả lại cơ thể con người giống như trong thực tế.

    [sửa] Kiến trúc

    Xem bài chính Kiến trúc Phục Hưng.

    Bartolommeo Berrecci - Wawel, Kraków
    Bartolommeo Berrecci - Wawel, Kraków

    Về nguyên tắc có thể phân biệt hai xu hướng khác nhau trong kiến trúc Phục Hưng. Một xu hướng hồi sinh các đường nét thời kỳ Cổ đại một cách nghiêm khắc. Tại Ý, Donato Bramante đã đạt đến mục tiêu này trong đỉnh cao của thời kỳ Phục Hưng vào khoảng năm 1500 và từ đó chiếm lĩnh ưu thế trong kiến trúc trên toàn nước Ý. Các công trình xây dựng Phục Hưng ở Ý được phác thảo trong sáng và hài hòa cân đối. Trong sơ đồ mặt bằng các kiến trúc sư hướng về các hình dáng đơn giản lý tưởng trong hình học như hình vuông hay hình tròn. Các chi tiết kiến trúc như cột, trụ bổ tường, đầu cột, đầu hồi tam giác,... đều trực tiếp dựa vào kiểu mẫu thời Cổ đại. Bên cạnh đó là các phát triển mới dẫn xuất từ khuôn mẫu của thời kỳ Cổ đại. Tất cả các phần xây dựng riêng lẻ đều phải được hòa hợp với nhau và với toàn bộ tòa nhà. Các luận thuyết kiến trúc của nhà xây dựng nổi tiếng người La Mã Vitruvius được tham khảo để tìm ra những tỷ lệ tương quan lý tưởng.

    Xu hướng thứ hai tuy cũng dựa vào thời kỳ Cổ đại nhưng biến đổi hình dáng các yếu tố xây dựng tương tự như nghệ thuật xây dựng thời Trung cổ, không vươn đến một nghệ thuật xây dựng theo các định luật một cách nghiêm ngặt.

    Nói chung khi nền văn hóa càng bám rễ sâu trong thời Trung cổ mang dấu ấn của miền Bắc châu Âu thì phong cách kiến trúc tương tự của Phục Hưng càng mạnh, tức là trước tiên là ở vùng Trung Âu và Bắc Âu. Trên bán đảo Iberia hai xu hướng này tồn tại bên cạnh nhau cho đến thời kỳ Baroque. Tại vùng châu Âu của Đức và Ba Lan hai xu hướng này được trộn lẫn một phần (thí dụ như lâu đài Heidelberg (Đức) hay lâu đài tại Wawel, Kraków (Ba Lan), thế nhưng xu hướng tương tự vẫn chiếm ưu thế cho đến thời gian cuối.

    [sửa] Văn học

    Đọc bài chính Văn học Phục Hưng.

    Tác phẩm La Divina Commedia (1307 - 1321) của Dante Alighieri; thư, luận thuyết và thơ của Francesco Petrarca và Il Decamerone (1353) khởi đầu cho thời đại Phục Hưng của văn học trong thế kỷ 14. Bá tước Baldassare Castiglione miêu tả trong Il Cortegiano (1528) típ lý tưởng của con người thời Phục Hưng.

    Cũng không nên quên rằng văn học đã phát triển mạnh mẽ sau phát minh in sách của Johannes Gutenberg trong thời kỳ Phục Hưng.

    Các nhà thơ và nhà văn nổi tiếng nhất của thời kỳ Phục Hưng bao gồm:

    * Dante Alighieri (1265–1321)
    * Francesco Petrarca (1304–1374)
    * Giovanni Boccaccio (1313–1375)
    * Angelo Poliziano (1454–1494)
    * Ludovico Ariosto (1474–1533)
    * Baldassare Castiglione (1478–1529)
    * Andrzej Krzycki (1482–1537)
    * Pietro Aretino (1492–1556)
    * Torquato Tasso (1544–1595)
    * François Rabelais (1494–1553)
    * Sebastian Brant (1457–1521)
    * Erasmus (khoảng 1466–1536)
    * Thomas Murner (1475–1537)
    * Philipp Melanchthon (1497–1560)
    * Sebastian Franck (1500–1543)
    * Andrzej Frycz Modrzewski (1503–1572)
    * Mikołaj Rej (1505–1569)
    * Łukasz Górnicki (1527–1603)
    * Jan Kochanowski (1530–1584)

    [sửa] Triết học

    Đọc bài chính về Triết học Phục Hưng.

    Triết học thời kỳ Phục Hưng từ bỏ tư tưởng Triết học kinh viện (tiếng Anh: Scholasticism) được Kitô giáo hóa và đặc biệt là hướng về chủ nghĩa duy tâm của Platon. Tất cả các tác phẩm của Platon đều được dịch ra tiếng La tinh. Nhiều triết gia thời Phục Hưng theo chủ nghĩa Platon mới (tiếng Anh: Neoplatonism) được phổ biến bởi Marsilio Ficino và Giovanni Pico della Mirandola. Một phương hướng triết học lớn của thời kỳ Phục Hưng là chủ nghĩa Nhân văn (tiếng Anh: Humanism). Đại diện cho tư tưởng nhân văn, ngoài những triết gia khác, là:

    * Coluccio Salutati (1331-1406)
    * Erasmus (1466–1536)
    * Niccolò Machiavelli (1469–1527)
    * Thomas Morus (1478–1535)
    * William Shaspeare(1564-1616)

    [sửa] Âm nhạc

    Đọc bài chính về âm nhạc Phục Hưng

    Đầu tiên, trường phái âm nhạc Hà Lan chiếm lĩnh ưu thế trong âm nhạc Phục Hưng, bắt đầu từ giữa thế kỷ 16 nhiều thúc đẩy cơ bản đến từ Ý, đặc biệt là các trường phái soạn nhạc như Florentine Camerata, trường phái soạn nhạc Roma và trường phái soạn nhạc Venezia.

    Một số nhà soạn nhạc thời kỳ Phục Hưng:

    * Guillaume Dufay (1400–1474)
    * Johannes Ockeghem (1425–1497)
    * Josquin Desprez (1440–1505)
    * Heinrich Isaac (1450–1517)
    * Jacob Obrecht (1450–1505)
    * Paul Hofhaimer (1459–1537)
    * Mateu Fletxa el Vell (1481-1553)
    * Ludwig Senfl (1486–1543)
    * Thomas Tallis (1505–1585)
    * Hans Neusiedler (1508–1563)
    * Giovanni da Palestrina (khoảng 1525–1594)
    * Orlando di Lasso (1532–1594)
    [IMG]images/smilies/4.gif[/IMG]

  2. #3
    Ngày tham gia
    Nov 2015
    Bài viết
    0
    Cảm ơn bác, nhưng tôi muốn hỏi có phải có 2 thời phục hưng cơ, ko phải là 2 giai đoạn.

  3. #4
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0
    2 giai đoạn đó cách nhau 1-2 thê kỉ ko đc xem như 1 thời riêng ah [IMG]images/smilies/22.gif[/IMG]

  4. #5
    Ngày tham gia
    Nov 2015
    Bài viết
    0

    2 giai đoạn đó cách nhau 1-2 thê kỉ ko đc xem như 1 thời riêng ah
    2 giai đoạn đó LIỀN SÁT nhau và kéo dài trong 1-2 thế kỷ.

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •