Cái văn:

1a. Thệ đồng cừu nhi bào trạch, ngô nho địch khái chi hùng phong,

1b. Tạm đầu bút nhi nhung hiên, quân tử dụng quyền nhi năng sự.

2a. Nghĩa như năng vãng, Chung Quân do thả thỉnh anh,

2b. Đạo cẩu khả hành, Tổ Địch thượng năng kích trấp.

3a. Cái tang bồng hồ thỉ, nam tử sơ tâm,

3b. Nhi nghĩa phủ nhân can, thiên hạ vô địch.

Thẩn tư Gia Tô du nhập ngã quốc:

4a. Ngữ kỳ thuật tắc xưng thiên xưng thánh, lung cổ ngu manh,

4b. Quan kỳ hành tắc vô phụ, vô quân, khuyển dương tộc loại.

5a. Xả khúc trực nhi ngôn cường nhược, mạn khoa pháo khả oanh sơn,

5b. Phế trung nghĩa nhu thiệp ba đào, lãng thuyết thuyền năng nhập thủy.

6a. Tự Đinh Tỵ duyên biên vi hoạn, phong thiền đản tứ xương cuồng,

6b. Kinh nhung thần phấn lữ hướng tiền, cầm thú dữ tư cuồng phệ!

Phụng Hoàng Thượng:

7a. Phấn nhiên duệ đoán

7b. Phương nhuệ hữu vi.

Nại hà

8a. Dục dũ du an...

8b. Cẩu cầu vô sự?

9a. Tấn đại phu chi sách, lập ngũ lợi nhi hại tùy,

9b. Tống tướng quốc chi mưu, kiến nhất hòa nhi ngạnh khỉ!

Tại sự

10a. Tây huynh nam đệ, nhẫn cam thành hạ chi minh?

10b. Giáp quyển nhung tàng, thùy phấn quân trung chi dũng?

11a. Hồ mạo hổ oai, dẫn chiên cừu vu quốc ấp,

11b. Kê thê phụng tập, nhập xú loại vu môn đình.

Hồ bị khuyển khi,

Lũ thứu ngã tỉnh!...

12a. Phụ khuyển mẫu phệ chi phong, tự khoa binh giáo,

12b. Chúa Trời chi thu chi thuyết, phục uế thính văn!

13a. Bỉ kỳ cảm nhĩ hoành hành,

13b. Ngã diệc khởi năng an tức.

14a. Dữ kỳ lâm thời thảng thốt, đồ di hậu hoạn chi ưu,

14b. Như hà cập tảo đồ hồi, dụng cập tiên mưu chi nghĩa?

15a. Khuyển dương mạc tín,

15b. Cầm thú nan thân.

16a. Mặc Đắc Hán thư,

16b. Kim Liên Tống sử,

17a. Ngã nhược khai môn chiêu khấu, muội thủ dĩ tùng...!

17b. Bỉ như thảo dã phục nhung, phệ tê hà cập?

Thỉnh chư quí hữu

18a. Mộc dục hưu phong,

18b. Tao phùng thạnh thế.

19a. Hoặc triều đình quan tước, dụng tại giản ty,

19b. Hoặc khoa mục trung nhân, tằng kinh ban lục.

20a. Hoặc ấm tử, viên tử, quan thanh nhi hệ hiệp hoằng ân,

20b. Hoặc học sinh, thí sinh, thánh trạch nhi chương trương thức hóa

Toại dĩ

21a. Phú gia vật lực, quân hoàng huệ nhi dụng phu

21b. Tổng lý hương hào, tịnh triều ân nhi phổ cập.

22a. Hữu từ khả chấp, Chu Công do thả ưng chi,

22b. Kiến nghĩa bất vi, Phu Tử viết vô dũng dã

23a. Miễn địch hàn tùng chi tuyết,

23b. Dụng trinh ngạnh thảo chi phong.

24a. Chỉnh ngã bằng đồ,

24b. Tiển bỉ vũ dực.

25a. Sử Tây tặc vô môn khả nhập,

25b. Tắc Dương Di hà xứ đắc lai?

Ô hô!

26a. Lý Cương bãi triều, nhi Thái học chi môn sinh kiến cổ,

26b. Bão Biên hạ ngục nhi Bác sĩ chi tử đệ cử phan.

27a. Huống kỳ an nguy,

27b. Sự quan đắc thất!

28a. Cổ kim cọng phẫn,

28b. Thiên địa bất dung.

Phàm hữu trung nghĩa chi tâm, sinh nhi tự hứa

29a. Tuy kim nhật di chỉ hành sự, cố ưng đắc tội ư cửu trùng,

29b. Đệ hậu lai phục khuyết thỉnh tru, do thả phu công vu Liệt Thánh,

Chi ư:

Kế tương an xuất?

Biệt hữu ngoại thư.

Cảm cáo đồng minh

Nguyện phù minh giám.



Bản dịch mới của Lam Giang

1a. Chung áo xiêm đuổi giặc an dân, trang quân tử vốn sôi lòng quyết chiến,

1b. Xếp nghiên bút ra tài cứu nước, bạn nho lưu đà quyết chí tranh cường.

2a. Điều nghĩa đáng làm, giây trói giặc Chung Quân xin lưới tới,

2b. Đường nên phải thế, thuyền qua sông Tổ Địch cứ bơi chèo.

3a. Vì cung dâu tên cỏ, chí nam nhi vùng vẫy bốn phương

3b. Mà lòng nghĩa gan nhân, trang quốc sĩ trị bình tám cõi.

Kể từ lúc đạo Gia Tô lẻn vào đất Việt:

4a. Xét trí thuật xưng Trời, xưng Thánh, lừa bọn đui ngu,

4b. Xem hành vi bỏ nước bỏ cha, cùng loài dê chó.

5a. Vứt chính nghĩa luận quân binh mạnh yếu, khoe rùm súng nổ tan non,

5b. Xóa cương thường lướt sóng gió xa khơi, láo tuốt thuyền chun giữa nước!

6a. Từ Đinh Tỵ biên thùy khói lửa, lũ côn đồ nổi dậy dường ong.

6b. Mà quan quân chiến trận hiểm nghèo, lũ Mọi Biển tru vang tựa sói.

Phụng Hoàng Thượng ngày nay

7a. Trí minh quyết đoán,

7b. Chí mạnh đủ làm

Sao chúng ta nỡ

8a. Co đầu sợ việc,

8b. Rút cổ cầu an.

9a. Nhường giặc thù mà nói lợi năm điều, buồn Tấn quốc có quan to bất trí,

9b. Hòa với địch để cầu yên một góc, xót Tống triều lầm tể tướng gian phi.

10a. Dưới hoàng thành thề thốt với quân Tây, tôn nó anh, chịu mình em, rất nhục...,

10b. Ra chiến trận chịu thua cùng Mọi Biển, quăng lưỡi gươm, cuốn áo giáp, sao nên?

11a. Cáo mượn oai hùm, dẫn thù nghịch tanh hôi dày đất nước,

11b. Gà leo nhánh phụng, dắt man di tàn ác hại quê nhà.

Hùm bị chó khinh

Mấy lần xâm phạm.

12a. Cắn càn, cắn bậy, khoe khoang binh giáo Viễn Dương,

12b. Tin nhảm, tin xằng, bịa đặt Chúa Trời Tây Vực.

13a. Nó dám tung hoành gây họa,

13b. Ta không lo tính sao yên?

14a. Đợi đến khi nước chảy ngập chân, mới hoảng hốt rồi tự di hậu họa,

14b. Sao bằng lúc lửa chưa cháy bếp, cứ sẵn sàng cho đúng nghĩa tiên ưu.

15a. Ai kết bạn hùm beo cho được,

15b. Ai tin lòng cầm thú bao giờ?

16a. Giặc Hung Nô bức hại Hán triều,

16b. Rợ Kim Liên xâm lăng Tống thổ.

17a. Nghe nó xin mở cửa thông thương, ta chẳng lẽ khoanh tay đón giặc,

17b. Nếu nó lại tung quân đánh úp, ta làm sao ngăn kịp phục binh?

Dám thưa cùng các vị bạn quí anh hiền:

18a. Từng gội ơn vua,

18b. Gặp đời Chúa Thánh

19a. Có hàm, có tước, chức ghi trong sổ triều đình,

19b. Có sắc, có bằng, tên chép trong hàng khoa mục.

20a. Hoặc đời trước làm quan, nay con được cậu viên, cậu ấm,

20b. Hoặc đời nay theo học, phận mình đương thầy khóa, thầy nho.

21a. Rao khắp hàng hào phú thôn dân, chớ để quân lương thiếu thốn,

21b. Truyền lệnh đến lý hương chức việc, nhớ ghi ơn nước dồi dào.

22a. Xét lý phải làm, Ngài Chu Công bằng lòng bảo quyết,

22b. Thấy nghĩa mà sợ, Đức Phu Tử quở rằng nhát gan.

23a. Ráng xua tan tuyết lạnh cội tùng,

23b. Gắng để ý gió lay ngọn cỏ

24a. Quạt lông cánh chim bằng phơi phới,

24b. Chặt tay chân giặc Mọi xương cuồng,

25a. Nếu Tây Di không kẻ dắt vào,

25b. Thì Mọi Biển tài gì đến được?

Ôi!

26a. Lý Cương bãi quan, nhà Thái học sinh viên đều gióng trống,

26b. Bão Biên hạ ngục, khoa Bác sĩ tử đệ đều dựng cờ!

27a. Huống chi nay sự việc an nguy,

27b. Quan hệ đến quốc gia còn mất.

28a. Xưa nay ai cũng oán giận,

28b. Trời đất không lẽ dung tha.

Phàm ai có lòng trung,

Thảy đều nên hưởng ứng...

29a. Tuy bây giờ phụng di chỉ làm việc, đành chúng ta mang lỗi với cửu trùng.

29b. Mà ngày sau chầu kim khuyết xin tha, còn có thể tâu công lên Liệt Thánh

Đến như hỏi:

Đâu là phương lược,

Xin có thơ riêng

Cáo tri các bạn đồng minh

Mong ước hết lòng xét rõ.



Bản dịch cũ có từ xưa

Thường nghe:

Thề chung thù đồng nệm chiếu, thói mạnh bạn ta,

Ném bút nghiên ra việc binh nhung, việc hay quân tử.

Xách giây trút mão, lòng nghĩa Chung Quân,

Chèo mạnh qua sông, dạ trung Tổ Địch.

Cung dâu tên đạn lòng nam tử,

Mật nghĩa gan trung chí trượng phu.

Nay mà binh Gia Tô đến nước ta:

Phỉnh phờ dân dại, láo thánh láo thiên,

Tộc loại muông dê, không cha, không chúa.

Ỷ mạnh khoe khoang súng đạn, bỏ việc vạy ngay,

Ra tài thuyền lướt sóng khơi, không điều trung nghĩa.

Năm Đinh Tỵ độc ong long dữ, khói sài lang hừng chốn biển sông,

Đấng nhung thần vút cọp ra oai, loài chó dại hung hăng cắn rứt.

Lệnh hoàng đế chỉ truyền lập tức, ngăn chống phía ngoài.

Người trung trinh đâu lẽ ngồi coi, hửng hờ trong dạ?

Lập năm lợi, hại liền thái quá, tôi Tấn chước bày!...

Dựng một hòa, gây việc chông gai, Tống thần mưu lược.

Há lẽ Tây huynh Nam đệ, cam tâm thề thốt dưới thành?

Có đâu giấu giáp thâu binh, không kẻ xuất chinh trên trận?

Nơi quốc ấp, áo chiên tràn lấn, cáo mượn oai hùm,

Chốn môn đình, hơi lạ tanh hôi, gà leo nhánh phụng.

Miệng hùm phóng độc, khoe khoang binh giáo Chúa Trời,

Chim bằng tiện nơi, hăm hở quân reo khắp tỉnh.

Không lẽ khoanh tay điềm tịnh, để di cái họa về sau?

Chi bằng cớ sự tính mau, rào dậu nên lo nước trước!

Khuyển dương xâm lược,

Tống có Kim Liên.

Cầm thú một thuyền,

Hán thời Mặc Đắc.

Không lẽ khai môn chờ giặc dữ,

Không ngăn ngừa cắn rún chốn rừng sâu.

Vậy xin mời khắp đâu đâu:

Kẻ quan tước sân chầu,

Người giáp khoa ban lục.

Tao phùng đời thạnh,

Tắm gội gió hòa.

Kẻ viên ấm quan gia,

Người văn chương thánh trạch.

Phú gia cốt cách, đều gội ơn vua,

Tổng lý hương hào, thảy nhờ phấn nước.

Thấy âu việc trước, Chu Công còn đánh Kinh Nhung.

Bỏ nghĩa không dùng, Khổng Tử chê rằng vô dõng.

Tùng tuyết đông hàn gắn gióng,

Đại phong trên cỏ thổi xiêu.

Cùng nhau bằng điểu tiêu diêu,

Cắt hết giặc kia lông cánh.

Như vậy dấu hùm lui tránh,

Chỗ đâu cửa ngõ vào ra?

Than ôi!

Lý Cương bãi triều, nhà Thái học kẻ môn đồ gióng trống,

Bão Biên hạ ngục, viện Bác sĩ bọn đệ tử treo phang.

Gặp lúc nguy an,

Thế lo đặng mất.

Xưa nay đều giận,

Trời đất không dung.

Kẻ trung nghĩa bình sanh tự hứa,

Vâng thiên nhan di chiếu ra làm,

Nơi chín trùng, chịu lỗi khoanh tay...

Với Liệt Thánh, tâu xong công việc.

Còn hỏi: kế tương an xuất

Xin đợi thơ ngoài

Rao khắp đồng minh

Xét soi tỏ rõ.

Nay hịch.



Tác giả: Võ Ngọc Nhã và Lam Giang
nguon http://www.dunglac.org/index.php?m=m...ib=113&ict=426.

__________________________________________________ _____

Bạn nghi gì về bài hịch trên? tôi nghi rang, các bậc tiền bối không chỉ cam phận bọn Pháp mà cả bọn công giáo đấy