Trang 1 của 2 12 CuốiCuối
Kết quả 1 đến 10 của 20
  1. #1
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0

    Chiến tranh VN qua con mắt một nhà báo Mỹ.

    Vâng, chúng tôi đánh bại nước Mỹ. Nhưng chúng tôi bị tác hại bởi những nan đề. Chúng tôi không đủ ăn. Chúng tôi là một quốc gia nghèo, kém phát triển. Tiến hành một cuộc chiến thì đơn giản nhưng điều hành một đất nước quả là khó.
    Phạm Văn Đồng.

    Việt nam vẫn còn đó trong chúng ta. Nó tạo ngờ vực về phán đoán, uy tín và sức mạnh Mỹ - không chỉ ở trong nước mà còn khắp thế giới. Nó nhiễm độc các cuộc tranh luận trong nước. Vậy thì chúng ta đã trả một giá quá đắt cho những quyết định đã được hình thành bằng niềm tin và mục đích cao đẹp của chúng ta.
    Henry Kissinger.


    Quan điểm một người Mỹ về chiến tranh Việt Nam.


    Đài tưởng niệm, một phiến đá hoa cương bóng loáng nằm trên một dốc thoai thải, là một tác phẩm nghệ thuật trừu tượng. Tuy vậy, sự đơn sơ của nó bi thảm hóa một thực trạng u ám. Tên của các tử sĩ trên phiến đá ghi khắc nhiều hơn là những sinh mạng mất đi trên chiến trường: Nó tiêu biểu cho sự hy sinh cho một cuộc thánh chiến thất bại, bất kể nguyên động lực (motives) cao đẹp hay hão huyền của nó. Trên một ý nghĩa lớn hơn, nó tượng trưng một hy vọng phai nhạt. - hay sự phát sinh của một nhận thức mới. Chúng là chứng tích cho sự chấm dứt niềm tin tuyệt đối về độc quyền đạo đức, tính bất khả chiến bại, vận mệnh hiển nhiên của người Mỹ. Chúng là giá trả bằng máu và đau khổ, về sự tỉnh thức để trưởng thành trong việc nhận ra những hạn chế của họ. Với những thanh niên Mỹ hy sinh ở Việt Nam cho giấc mơ một kỷ nguyên Mỹ Quốc.
    Hàng ngàn cựu chiến binh Việt Nam đổ dồn về Washington trong một cuối tuần thuộc tháng 11 (ngày 11 tháng 11, ngày cựu chiến binh) năm 1982 cùng với gia đình của họ, gia đình người đã chết để tưởng niệm. Một số bại liệt trong xe lăn, một số cụt tay chân. Họ mặc quân phục hay âu phục hay mặc hoàn toàn trang bị chiến đấu. Có những diễn văn, buổi họp mặt đoàn tụ, và một diễn hành và một thánh lễ tại thánh đường quốc gia, nơi những người tình nguyện, thắp nến canh thức suốt tuần lễ, đọc tên từng tử sĩ gồm gần 58 ngàn người. Từ xa, đám đông tụ họp những người biểu tình, những người đã tấn công vào thủ đô lên án cuộc chiến trong thời kỳ chiến tranh lên cao độ. Giờ đây người Mỹ có vẻ như trang trải một món nợ với những người từng chiến đấu và đã hy sinh - kính ngưỡng sự đóng góp, đền bù sự đau khổ của họ. Những gương mặt, những lời kinh và đài tưởng niệm tự nó có vẻ như làm dịu vết thương. Hai tên gọi trên đầu của bảng tưởng niệm - Dale R. Buis và Chester M. Ovnand - gợi trong tôi hồi tưởng về một sự kiện xa xăm.
    Chuyến viếng thăm Việt Nam đầu tiên của tôi vào tháng 7 năm 1959, ngay sau khi đến Á Châu trong chức vụ trưởng ban đặc phóng viên cho tạp chí Time và Life. Phiến Cộng nổi dậy thách đố chế độ vừa mới 5 năm trước, khi một hội nghị quốc tế tổ chức tại Geneva chia cắt đất nước theo sau cuộc chiến bại của người Pháp. Từ ngữ Việt Cộng, mang ý nghĩa xấu xa, được chính quyền miền Nam Việt Nam đặt tên cho những phiến quân Cộng Sản, lúc này chưa được phổ biến - và họ vẫn được gọi bằng tên Việt Minh, một phong trào đánh bại người Pháp. Vài trăm cố vấn quân sự Mỹ đã được bổ nhậm để huấn luyện, trang bị cho quân đội miền Nam Việt Nam, nhưng những dấu hiệu trở ngại nghiêm trọng vẫn còn rất hiếm. Thế rồi chiều ngày 8 tháng 7, một sự kiện xảy ra ở một doanh trại gần Biên Hòa, bộ tư lịnh sư đoàn quân lực nam Việt Nam, 20 dặm bắc Sài Gòn. Tôi lái xe đến đấy để thu nhặt tin tức ngày hôm sau.
    Sáu năm sau, khi nước Mỹ đổ quân, tiền, vật liệu vào trong một cuộc chiến đang mở rộng, Biên Hòa thành một hậu cứ khổng lồ Mỹ và thị trấn xuống cấp thành một khu giải trí nhếch nhác toàn những quán rượu và ổ điếm. Năm 1959 tuy nhiên nó vẫn là một thị trấn nhỏ, vắng với nhà thờ, biệt thự cổ và đường phố có trồng cây hai bên là dấu tích một trăm năm thuộc địa Pháp. Lái xe qua cái khí nóng ẩm của buổi sáng nhiệt đới, qua cái thoáng nhìn, tôi nhận thấy một vùng đất chưa bị quấy nhiễu bởi chiến tranh. Những người dân trong bộ đồ bà ba đen, nón lá lom khom trên những thửa ruộng ngập nước, nhịp độ làm việc chậm rãi của họ là chứng từ cho sự kiên nhẫn vô biên Á Châu, và những chợ làng nhộn nhịp dọc con đường quảng cáo cho sự phì nhiêu của đất nước. Nhưng khi chạy xe vào trại lính, tôi gần như có thể nếm mùi vị của cuộc chiến mới chớm mà cuối cùng cường độ của nó vượt quá sức tưởng tượng ly kỳ nhất của tôi.
    Đêm trước, 6 trong số 8 cố vấn Mỹ đồn trú tại Biên Hòa vừa ăn xong bữa tối trong phòng ẩm thực và chuẩn bị chiếu phim, The Tattered Dress, Jeanne Crain thủ vai diễn viên chính. Một người mở đèn điện sáng để thay cuộn phim tiếp thì sự kiện xảy ra. Du kích thọc súng qua các cửa sổ và rải những loạt đạn vào phòng chiếu phim bằng súng tiểu liên - hạ sát ngay tức khắc thiếu tá Buis và thượng sĩ Ovnand, 2 người lính gác Việt Nam và một cậu bé Việt Nam 8 tuổi.
    Người Mỹ không phải là những binh sĩ đầu tiên chết ở Việt Nam. Trung tá A. Peter Dewey của phòng công tác chiến lược (OSS, Office of Strategic Services) đã bị bắn lầm bởi một nhóm Việt Minh ngoại ô Sài Gòn 14 năm trước, hồi tháng 9 năm 1945. Và một phi công can trường, đại uý James B. McGovern - bí danh Earthquake McGoon, lấy tên một nhân vật hí họa của Li’l Abner - rớt máy bay trong phi vụ tiếp tế cho chiến binh Pháp ở Điện Biên Phủ vào tháng 5 năm 1954. Nhưng Buyis và Ovnand là 2 người đầu tiên chế trong kỷ nguyên chiến tranh Việt Nam, trong cáo phó chính thức cho một cuộc chiến không hề chính thức tuyên chiến.
    Bài tường thuật của tôi về vụ việc ở Biên Hòa chỉ chiếm một góc nhỏ trong tạp chí Time - Nó chỉ đáng thế thôi. Không ai có thể tưởng tượng rằng sẽ có hơn 3 triệu người Mỹ phục vụ quân dịch tại Việt Nam - hay 58 ngàn người bị tiêu diệt trong rừng, trên ruộng và tên của họ được khắc 23 năm sau, trên một đài tưởng niệm tọa lạc gần đài tưởng niệm Washington và Lincoln.
    Quan sát các lỗ đạn trên tường ở Biên Hòa, tôi cũng không thể dự kiến cảnh tàn sát gieo tàn phá Việt nam suốt 16 năm chiến tranh theo sau. Hơn 4 triệu chiến sĩ và dân cư 2 miền - ước chừng 10/100 dân số lúc ấy - chết hoặc bị thương. Hầu hết binh sĩ miền Nam được chôn cất trong thổ ngơi của gia đình. Ngược về hướng bắc trong cuộc du lịch sau chiến tranh, tôi thấy những mộ bia bằng đá trắng trong nghĩa địa mỗi làng, mỗi tấm khắc 2 chữ Liệt Sĩ. Nhưng mộ huyệt chỉ trống không; những tử thi đã vị vùi lấp bằng xe ủi đất thành những mồ chôn tập thể, nơi họ gục ngã.
    Trên quan điểm con người, chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến không ai thắng - Một cuộc chiến đấu giữa các nạn nhân. Căn nguyên của nó quá phức tạp, những bài học của nó gây tranh cãi, di sản của nó vẫn đang được đánh giá bởi những thế hệ sau. Nhưng dù nó là một cuộc mạo hiểm thuần tuý hay là một nỗ lực lầm lạc, nó là một bi kịch mang kích thước anh hùng ca.
    _________________________________________________


    Chủ tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, ông Nguyễn Hữu Thọ.


    Đại tướng Văn Tiến Dũng.


    Đại tướng Võ Nguyên Giáp.


    Ông Lê Đức Thọ.


    Lê Đức Anh. chỉ huy trận đánh chiến Nam Vang thời Pôn Pốt.


    Lê Duẩn, chúa tể thời đóng cửa.

    Lịch sử là một tiến trình hữu cơ. Một dòng liên tục những sự kiện liên hệ không thể dời đổi, không thể tránh khỏi. Những vị lãnh đạo và con người trong lịch sử chọn lựa và nâng đỡ quyết định chọn lựa của mình, nhưng chỉ trong bối cảnh kinh nghiệm và nguyện vọng của họ. Căn nguyên sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam đã được gieo trồng, vun xới trong quan niệm Mỹ về “chủ nghĩa biệt lệ” (exceptionalism, giáo sư đại học đường Havard, ông Daniel Bell, đặt tên.)
    “Con đường hướng về miền Tây của đế quốc,” viết bởi George Berkeley, một giám mục hệ phái Angelican, và cũng là một triết gia rao tin về những chân trời mới phía trước, khi ông khởi hành từ Anh sang Mỹ năm 1726. Một thế kỷ sau, những người Âu Châu khác, lập lại sự tán tụng của ông về xã hội mới. Với Hegel, Mỹ là miền đất của tương lai, mời gọi tất cả những ai mệt mỏi với cựu lục địa, khi Tocqueville nhận ra Mỹ như một ngọn hải đăng, về thể chế dân chủ của nó, sự phong phú tài nguyên thiên nhiên và cơ hội thăng tiến cá nhân như một kiểu mẫu lý tưởng so với một Âu Châu suy đồi, rách nát bởi nghèo đói, vô vọng, căng thẳng giai cấp và xáo trộn ý thức hệ. Ý tưởng sự duy nhất cũng gây phấn khởi cho người Mỹ và cụm từ “vận mệnh hiển nhiên” (Manifest Destiny, xin đọc thêm phần chú dẫn 1 ở cuối đề tài) biểu thị niềm tin vào nghĩa vụ phân phát phúc lợi cho những nền văn minh kém thuận lợi hải ngoại.
    Cụm từ ra đời năm 1845 nhằm cổ động sự sát nhập Texas, biện hộ cho sự bành trướng lãnh thổ của họ về phía những biên giới thiên nhiên. Nó là khẩu hiệu của những nhà cải cách, người bảo trợ cho đạo luật Điền Thổ (Homestead Act, xin đọc thêm phần chú dẫn 2 ở cuối đề tài.) nhằm mở những địa hạt mới cho những tiểu điền chủ, trong số những di dân người Đức, Ái Nhĩ Lan vượt thoát sang Mỹ tìm kiếm an ninh và tự do. Sau đó nó được khuếch đại bởi những người lý tưởng chủ nghĩa như Walt Whitman (1819-1892), một thi sĩ chuyên sáng tác những bài thơ ca ngợi quê hương đất nước, người dự kiến Mỹ sẽ chiếu rọi hạnh phúc, tự do của nó đến những nền văn hóa cổ kính Á Châu. Sau này, những người cấp tiến như John F. Kennedy và Lyndon B. Johnson, thuyết phục rằng họ khuếch trương đạo lý tự do đến Việt Nam như một liều thuốc giải trừ độc tài, có lẽ mượn ý tưởng từ Whitman:

    Facing west from California's shores,
    Inquiring, tireless, seeking what is yet unfound,
    I, a child, very old, over waves, towards the house of maternity,
    the land of migrations, look afar,
    Look off the shores of my Western sea, the circle almost circled;
    For starting westward from Hindustan, from the vales of Kashmere,
    From Asia, from the north, from the God, the sage, and the hero,
    From the south, from the flowery peninsulas and the spice islands,
    Long having wander'd since, round the earth having wander'd,
    Now I face home again, very pleas'd and joyous,
    (But where is what I started for so long ago?
    And why is it yet unfound?)


    Học thuyết vận mệnh hiển nhiên khác với chủ nghĩa thực dân thịnh hành đầu thế kỷ 20. Nước Mỹ cũng vươn tay nắm quần đảo Hawaii, Guam và một phần Samoa và tiến chiếm Puerto Rico, Cuba và Phi Luật Tân sau khi đánh bại Tây Ban Nha năm 1898. Nhưng trong khi những quyền lực Âu Châu chia cắt Á Châu, Phi Châu, rất ít xu hướng Mỹ chinh phục các lãnh thổ hải ngoại. Trái với Âu Châu, thèm khát những nguyên liệu sống và cửa khẩu cho kỹ nghệ, nước Mỹ có thể trông cậy vào tài nguyên của nó và thị trường bao la rộng lớn quốc nội. Ngoài ra, từng là kẻ nổi loạn chống thực dân Anh bạo ngược, tự trong bản năng, người Mỹ xua đuổi ý tưởng thống trị kẻ khác. Những nhà tư tưởng xuất chúng thời ấy như Andrew Carnegie và hiệu trưởng đại học đường Havard, ông Charles Eliot, chống đối kịch liệt chủ nghĩa đế quốc, khẳng định trong tranh luận của họ là nó vi phạm quy luật thị trường tự do.
    Nhờ thế, Cuba được trao trả độc lập. Đề xướng bởi Haiti và San Domingo trở thành thuộc địa Mỹ bị từ khước. Không giống Âu Châu, Mỹ tự chế không xúm vào cướp bóc Trung Hoa - và một cách đặc thù dùng một quỹ bồi thường thiệt hại gánh chịu trong cuộc nổi loạn quyền phỉ, trợ cấp cho học sinh Trung Hoa tại Mỹ. Phi Luật Tân, sở hữu chủ yếu vẫn còn sự giám hộ Mỹ, cuối cùng bị chinh phục sau cuộc trường kỳ bình định báo trước chiến lược Mỹ tại Việt Nam. Nhưng sự chiếm hữu quốc gia quần đảo ấy chỉ là miễn cưỡng. Tổng thống William McKinley sau này thú nhận:”Sự thực là tôi không muốn Phi Luật Tân, và khi nó đến như một món quà của Thượng Đế...chúng ta không còn gì chọn lựa khác hơn là nhận lãnh và giáo hóa người Phi Luật Tân ... và nhân danh Chúa, làm những gì tốt nhất cho họ.”
    Thật là một xuyên tạc trắng trợn khi cho rằng sự hiện diện của người Mỹ ở nước ngoài luôn thể hiện lòng bác ái, vị tha. Những thương vụ lớn khai thác, bóc lột “các anh em da màu” ở Phi Luật Tân cũng như sự thao túng kinh tế ở châu Mỹ La Tinh, thường binh vực các bạo chúa địa phương để bảo vệ quyền lợi riêng của mình. Nhưng một khuynh hướng phổ biến hơn trong chủ nghĩa bành trướng của Mỹ là truyền bá phúc âm - như thể Mỹ phải thi hành những nghĩa vụ thiêng liêng được Thiên Chúa lựa chọn để cứu độ thế giới. Luận điệu cứu chuộc này thấm đậm vào lời tuyên thệ của Woodrow Wilson “làm thế giới an toàn hơn cho sự phát huy dân chủ” dưới sự che chở của Mỹ. Franklin D. Roosevelt cũng nhấn mạnh cùng luận điệu. Ông ta khuyến khích quyền tự quyết quốc gia ở những thuộc địa Âu Châu, trong khi chối bỏ bất cứ tham vọng bá quyền nào của Mỹ sau thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến. Hơn thế nữa, ông nhấn mạnh, hòa bình và ổn định thế giới thời hậu chiến phải được bảo vệ dưới sự lãnh đạo của Mỹ.
    Những tuyên bố đạo đức này trong lúc ấy được so sánh ngang với lòng sốt sắng của những nhà truyền giáo Mỹ, đặc biệt ở Trung Hoa. Ở đó Mỹ ban hành chính sách mở cửa, được thiết kế để duy trì chủ quyền của Trung Hoa chống lại sự xâm lăng của các đế quốc Âu Châu. Nhưng các nhà truyền giáo được thiết tưởng hành động từ trong nước Trung Hoa để biến nó thành một quốc gia Thiên Chúa giáo, theo đó thúc đẩy sự phát triển những thể chế dân chủ và gắn bó quan hệ với Mỹ. Nó có vẻ xưa so với ngày nay, nhiều nhân sĩ Mỹ kỳ vọng vào một Trung Hoa Thiên Chúa giáo. Anson Burlingame, một nhà ngoại giao Mỹ và sau này cố vấn cho triều đình Mãn Châu, dự kiến “thập tự giá ngời hào quang trên mỗi ngọn đồi, mỗi thung lũng” cả nước, và William Jennings Bryan mong mỏi “một nền văn minh Trung Hoa mới ... đặt nền tảng trên phong trào Ky Tô Hữu.” Ảo vọng này lên cao hồi đầu thập niên 1930, khi thống chế Tưởng Giới Thạch, lãnh tụ Trung Hoa Quốc Gia, cải đạo sang Methodist - một chi phái Tin Lành - phần lớn để thắt chặt mối liên hệ với Tây Phương. Nhiều người Mỹ sớm thấy Trung Hoa trở nên một rập khuôn nước Mỹ, một nguyện vọng được trang trọng mô tả bởi thượng nghị sĩ tiểu bang Nebraska, ông Kenneth Wherry, năm 1940 :”Nhờ ơn Chúa, chúng ta sẽ nâng Thượng Hải lên cao, cao mãi cho đến khi nó giống như thành phố Kansas.”
    Cùng một giọng tán dương như thế, Henry Luce, sở hữu chủ 2 tạp chí Time và Life trưng bày một hoạch định quy mô cho tương lai Mỹ sau thế chiến thứ hai. Ông là con của 2 vợ chồng truyền giáo và sinh tại Trung Hoa. Bài viết của ông trong Life, “Thế hệ Mỹ” (The American Century,) mang giọng tiên tri :”Chúng ta cần hơn hết là tìm kiếm, mang lại một viễn tượng Mỹ như một quyền lực thế giới, đúng vẻ Mỹ ... Mỹ như trung tâm năng động ngày càng lan rộng của công việc kinh doanh, Mỹ như trung tâm huấn luyện những tài năng phục vụ nhân loại, người Mỹ là những người bác ái, thực tâm tin rằng cho sẽ đón nhận ân phúc nhiều hơn là nhận, và nước Mỹ là nguồn năng lượng cho những lý tưởng Tự Do và Công Bình - những ý tưởng này chắc chắn có thể tạo thành một viễn ảnh của thế kỷ 20...Kỷ nguyên Mỹ Quốc đầu tiên và vĩ đại.
    Phản ứng công luận về bài diễn thuyết khó hiểu này với ngờ vực và tệ hơn, chế nhạo. Luke rút lại bài này - đặc biệt khi gặp một phúc đáp từ nhà lý thuyết nổi tiếng, Reinhold Niebuhr, cảnh báo một sự hủ hóa vị kỷ chủ nghĩa của quốc gia thúc đẩy bởi kỳ vọng này. Nhưng niềm tin rao truyền bởi Luce - phúc âm về bổn phận duy trì trật tự thế giới của người Mỹ - ngày càng bám rễ. Nó tạo sự khẩn trương mới sau thế chiến khi mối lo ngại Cộng Sản chủ nghĩa đầy vững chắc ám ảnh nước Mỹ. Một cách lập đi lập lại, các tổng thống Mỹ kế vị cắt nghĩa chính sách đối ngoại với ngôn ngữ đao to búa lớn. "thế giới ngày nay trông cậy sự lãnh đạo của chúng ta," Harry Truman nói và Dwight Eisenhower cũng nói và dùng những từ ngữ như vậy. Kennedy cũng thế, tuyên thệ trong bài diễn văn nhậm chức rằng :" Mỹ sẽ trả bất cứ giá nào, gánh vác bất cứ gánh nặng nào, đảm đương bất cứ khó nhọc nào, yểm trợ bất cứ đồng minh nào, chống đối bất cứ kẻ địch nào, để đảm bảo cho sự tồn tại và khải hoàn của tự do." Mục đích của Johnson, như ông đã mô tả, là "mang lại hòa bình, hy vọng cho nhân loại," và Richard Nixon tự miêu tả như một kiến trúc sư của "một công trình xây dựng hòa bình thế giới."

    Còn tiếp.

  2. #2
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0
    Tiếp theo.


    Tổng thống Eisenhower và tổng thống Ngô Đình Diệm.

    Vì vậy, nước Mỹ hành xử trên sự tự đảm nhận ấy của chính phủ và quần chúng trong bầu không khí nhất trí của lưỡng đảng. Chiến lược vĩ đại bàn thảo sau chiến tranh - "trả đũa ồ ạt" đối lại với "phản ứng uyển chuyển" - tập trung trên phương tiện hơn là mục đích. Theo đó, Mỹ sẽ không sẩy chân vào vũng lầy Việt Nam một cách mù quáng, cũng không bị lôi cuốn vào trong tranh chấp bởi nhóm chủ chiến ở tòa Bạch Ốc, Ngũ Giác Đài, bộ ngoại giao, hay CIA (Cen tral Intelligence Agency) trong sự hợp tác với thị trường hối đoái Wallstreet và tập đoàn thương mại Mỹ. Hàng đoàn lũ dân chính và các quan chức phải qua một tiến trình chậm chạp, cồng kềnh và thường là phiền phức khi nghiên cứu dữ kiện, soạn thảo kế hoạch và liệt kê đáp án theo đó, tổng thống cân nhắc cẩn thận những yếu tố chính trị quốc nội trước khi đi đến quyết định. Sự phán đoán của ông cũng bị ảnh hưởng bởi định kiến dựa vào kinh nghiệm quá khứ và ngay cả phong thái cá nhân nữa. Vì thế tuy chính sách Việt Nam không dựa vào may rủi nhưng cũng không thuần túy khoa học. Ngoài ra, khi những quyết định đã hình thành, chúng phản ảnh quan điểm của đại đa số nhân dân Mỹ để sau này họ không thể lẩn tránh trách nhiệm trong vai trò người chăm nom mọi vấn đề thế giới.
    Thảm họa Việt Nam làm đen tối quan điểm ấy, để lại cho người Mỹ sự mơ hồ, lạc hướng về vai trò của mình trên thế giới. Qua những năm sau đó, những thoái bộ khác càng làm cho giấc mơ về tính ưu việt của nó tan vỡ. Năm 1973, Trung Đông tăng giá dầu hỏa càng chứng tỏ sự yếu kém của Mỹ và các tổ chức kỹ nghệ khác. Mỹ tự thấy mình thua sút các quốc gia khác về kỹ thuật, giáo dục, y tế và phát triển đô thị. Oằn nặng bởi thiếu hụt ngân sách liên bang, hậu quả của chi dụng hoang phí, Mỹ mau chóng trông cậy vào bán công khố phiếu, một hình thức vay tiền, để tránh vỡ nợ. Năm 1989, lần đầu tiên kể từ Đệ nhất thế chiến, đầu tư ngoại quốc vào Mỹ vượt quá đầu tư Mỹ ở hải ngoại. Từng là chủ nợ giàu nhất thế giới, Mỹ trở nên con nợ nhiều nhất thế giới.
    Nhưng nhiều hơn những tấn tuồng khác, sự sụp đổ Việt Nam, sự thất trận duy nhất trong lịch sử Mỹ, làm mất đi niềm cao ngạo về tính siêu việt của mình. Tháng Giêng năm 1991, khi tổng thống George Bush ra lịnh ào ạt tấn công I Rắc theo sau cuộc xâm lăng của I Rắc vào Kuwait, ông ta chỉ làm thế sau khi thành công trong việc động viên sự ủng hộ của Liên Hiệp Quốc trong nỗ lực dựng vở tuồng nước Mỹ không hành động một mình. Ngoài ra, tuyên bố tấn công, ông khu trừ hồn ma Đông Nam Á hằng ám ảnh Mỹ bằng lời hứa :"I Rắc sẽ không là một Việt Nam," một xung đột trong đó, ông bày tỏ, binh sĩ Mỹ được trưng dụng để chiến đấu với một tay bị trói quặt sau lưng." Tuy nhiên, cuộc động binh của ông đã bị giảm nhuệ khí bởi sự chia rẽ sâu sắc ngay cả trong quốc hội lẫn công chúng làm gợi nhớ lại những tranh luận làm phân hóa quốc gia thời chiến tranh Việt Nam. Ngay cả khi lâm trận, đất nước đã tỉnh thức và hoang mang khi nghi hoặc, lo ngại tràn lan làm nhụt lòng yêu nước. Quá khứ vĩnh viễn bị bỏ lại khi nguời Mỹ, được thuyết phục về sự bất khả chiến bại, cảm thấy an tâm trong vai trò sen đầm (gendarme) quốc tế.
    Nhưng cuối tháng Hai, tâm trạng người Mỹ đột ngột biến đổi từ lo ngại sang thoải mái, mừng rỡ khi Mỹ và lực lượng đồng minh trong vịnh Ba Tư thắng một trận chiến ngoạn mục vô tiền khoáng hậu trong lịch sử. Chỉ sau 6 tuần chiến đấu chủ yếu là dội bom, và chỉ 4 ngày trận địa chiến, họ giải phóng Kuwait và tiến vào miền Nam I Rắc, tiêu diệt, sát thương, bắt sống hơn một trăm ngàn chiến binh địch, với tổn thất khoảng 200 binh sĩ Mỹ. Tổng thống Bush tuyên bố chiến thắng và trong men say chiến thắng, ông công bố :"Nhờ ơn Chúa, chúng ta xua tan đi hội chứng Việt Nam, một lần và vĩnh viễn." Nhưng ông mau chóng thêm rằng vinh quang khải hoàn không làm sống lại thời kỳ trước Việt Nam khi người Mỹ chủ trương giải quyết mọi khủng hoảng bằng phương tiện quân sự vì, ông cắt nghĩa rằng sự biểu thị vĩ đại của quân lực Mỹ tại vùng vịnh có lẽ làm giảm đi những xung đột trong tương lai. "Nhờ vào chiến thắng này, chúng ta sẽ không phải dùng đến quân lực Mỹ khắp thế giới nữa."


    Tổng thống Bush và Henry Kissinger.

    Trong lúc ấy, các chiến lược gia như cựu bộ trưởng ngoại giao Henry Kissinger lại cẩn thận chống lại ý tưởng chiến thắng rực rỡ tại vùng vịnh có thể tái lập vai trò sen đầm quốc tế của Mỹ trong quá khứ. Là một ủng hộ viên nhiệt liệt trong vấn đề chống I Rắc, ông khuyến cáo người Mỹ từ bỏ ý định rằng họ có thể "đối phó với mọi vấn đề ngay tức khắc" hay tái thiết thế giới "theo các đặc điểm kỹ thuật Mỹ." Thay vào đó, ông viết, quốc gia phải "chọn lọc, tiết kiệm tài nguyên cũng như uy tín của mình." Tương tự như vậy, những bình luận gia khác cũng nhấn mạnh rằng nước Mỹ, đương đầu với những vấn đề gây nản lòng khác như kinh tế, xã hội không thể đảm trách với những trách nhiệm vô hạn. Vì thế, trong khi người Mỹ hội đủ lý lẽ hợp tình hợp lý hỉ hoan trong thành công ở Trung Đông, họ có rất ít lý do thiết tưởng rằng thêm một lần nữa, họ lại là một quyền lực siêu việt thế giới. Điều này khiến niềm tự mãn của họ không làm mất hiệu lực sự đánh giá của Daniel Bell 15 năm trước :"Thế hệ Mỹ quỵ ngã trên những bãi cạn Việt Nam."
    Những lượng định hồi tưởng về chiến tranh luôn là những ước ao "giá mà chúng phải thế này thì có lợi hơn" sau khi những rủi ro ngoài ý muốn xảy ra, và chiến tranh Việt Nam cũng không là một ngoại lệ.
    Người Mỹ ủng hộ Lyndon Johnson một cách kịch liệt khi ông tung chiến binh Mỹ vào chiến trường Việt Nam vào tháng Ba năm 1965. Sự ủng hộ chiến tranh giảm đi sau đó - và từ cuối cuộc chiến, thái độ trở nên trộn lộn và mâu thuẫn. Cuộc thăm dò dư luận của tạp chí Time ấn hành tháng Tư năm 1990 cho biết 57/100 quần chúng Mỹ coi sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam là sai. Nhưng hầu như tương đương con số tỷ lệ ấy chủ trương một khi nhúng tay, Mỹ phải dùng tất cả sức mạnh của nó để đạt chiến thắng. Nhìn chiến tranh từ một lăng kính khác, cựu chiến binh Mỹ coi sự tham chiến là đúng và cả tiếng tự hào về sự tham dự của họ. Một nghiên cứu mới đây tiết lộ tương tự như thế quả quyết 82/100 họ bị ngăn cản việc đi đến chiến thắng - và một cách ngạc nhiên, hai phần ba tuyên bố sẵn sàng chiến đấu nữa tại Việt Nam nếu không có những ngăn cản làm mất hiệu quả trong cuộc chiến. Một cách nghịch lý, gần một nửa cựu chiến binh được tạp chí Time nghiên cứu năm 1990 chấp thuận sự thiết lập bang giao với chính phủ Cộng Sản ở Hà Nội.
    Lúc ấy, một số cựu chiến binh đã sang thăm viếng Việt Nam. Họ thăm lại chiến trường, nay đã biến thành rừng, và tìm lại được những thị trấn, làng mạc một thời họ từng sinh hoạt. Một số người Việt Nam , dù cô lập với thế giới bên ngoài, đã thấm nhuần văn hóa Mỹ bằng cách thưởng thức nhạc Mỹ qua truyền thanh, băng nhạc hay phim ảnh nhập nội lậu. Và nếu thời gian ngừng lại, những cựu chiến binh Mỹ thấy họ bị bao quanh bởi những đứa trẻ với nụ cười rộng mở, chào hỏi :"Hey, Joe!" Tháng Giêng năm 1989, tại thành phố HCM (Sài Gòn cũ), một cựu du kích Việt Cộng tên Lê Văn trao cho Morley Safer, phái viên truyền hình Mỹ, một bài thơ vinh danh sự trở lại của những "grunts", tiếng lóng chỉ binh sĩ Mỹ. Bài thơ tiếng Mỹ như sau :

    How many American soldiers
    Died in this land?
    How many Vietnamese
    Lie buried under trees and grass?...
    Now the wineglass joins friends in peace.
    The old men lift their glasses.
    Tears run down their cheeks.


    Nhìn lại, những chuyên gia quân sự, chính trị Mỹ đã chẩn đoán cuộc chiến từng chi tiết, vì thế sự nghiên cứu về chiến tranh trở nên một kỹ nghệ nhỏ. Nhưng toa thuốc làm thế nào tránh bại trận tại Việt Nam cũng nhiều và khác nhau từ những nhà phân tích khác nhau.
    Tướng William C. Westmoreland, tổng tư lịnh lực lượng Mỹ ở Việt Nam từ năm 1965 - 1968, xác nhận trong hồi ký rằng những hạn chế đã cản trở sự hiệu quả của ông. Ông đổ lỗi cho tổng thống Johnson gia tăng cường độ cuộc chiến quá chậm, cấm hành quân qua biên giới Lào, Miên, trang bị cho quân đội Việt nam Cộng Hòa một cách thiếu thích đáng, và quan trọng hơn, thất bại trong việc động viên tinh thần quần chúng Mỹ. Ông cũng trách cứ tổng thống Nixon và nhà đàm phán Henry Kissinger, đã bỏ rơi chính phủ miền Nam, ký kết một thỏa ước ngừng bắn năm 1973 cho phép binh sĩ Việt Cộng ở lại miền Nam. Hơn tất cả, ông lên án hệ thống truyền hình, báo chí Mỹ, viện lẽ họ xuyên tạc sự thật nhằm khuynh loát dư luận Mỹ. Ông kết luận sự chỉ trích trong một bữa ăn tối ở Charleston, South Carolina, nơi ông cư ngụ. "Một bài học đáng suy gẫm là những thanh niên không nên đẩy vào chiến trường trừ phi đất nước ủng hộ họ."


    Tướng William C. Westmoreland.

    Những sĩ quan khác cũng chế giễu báo chí, viện dẫn các nhà báo đầu độc công luận trong nước bằng cách trầm trọng hóa những thất bại, sự tàn bạo. Với đa số, sự loan tin của báo chí, dù đúng hay sai sự thật, phương hại đến lý tưởng chiến đấu Mỹ. Trung úy Philip B. Davidson ghi chép : "khung cảnh tàn phá, thống khổ và đẫm máu trên màn ảnh truyền hình hằng đêm, gieo phiền não, kinh hoàng cho nhân dân Mỹ." Tướng Fred Weyand, tư lịnh cuối cùng ở Việt Nam, tô đậm nét hơn rằng sự chán ghét chiến tranh ngày càng lan rộng hơn, được nuôi dưỡng bằng báo chí, "gậy ông đập lưng ông" làm suy sụp tinh thần chiến đấu các lực lượng Mỹ trên chiến trường. "Quân đội Mỹ thực sự là quân đội nhân dân trên ý nghĩa nó lệ thuộc vào nhân dân Mỹ... Khi quân đội chiến đấu, nhân dân Mỹ chiến đấu; khi nhân dân Mỹ mất ý chí chiến đấu, thật vô ích khi cố gắng buộc quân đội chiến đấu."
    Johnson và Nixon bị dội ngược với biện pháp kiểm duyệt báo chí cùng với kiểm soát kinh tế gắt gao mà theo họ, sẽ nâng tầm quan trọng của chiến tranh và có lẽ hủy hoại dung mạo chính trị của họ tại quốc nội. Thay vào đó, họ áp dụng cái gọi là "chính sách trung thực tối thiểu," trong đó các sĩ quan trách nhiệm thông tin tìm cách quản lý tin tức bằng cách ngụy tạo những câu chuyện về những bước tiến triển khả quan của cuộc chiến. Nhưng, William M. Hammond kết luận trong tài liệu chính thức lịch sử quân đội Mỹ, sự đặc phái các nhà báo đến Việt Nam, dù nhiều khuyết điểm, "vẫn chính xác hơn" những phúc trình lạc quan của chính phủ. Vì vậy, nỗ lực thất bại trong việc che giấu sự thực cuộc chiến sản xuất ra cái gọi là vết rạn nứt tín nhiệm, dần dà xoi mòn niềm tin quần chúng vào những tuyên bố chính thức.
    Đại đa số các sĩ quan đều cho rằng thủ phạm chủ yếu là Johnson, kẻ từ chối đặt quốc gia trong tư thế chiến tranh, sợ rằng cuộc chiến toàn diện sẽ tác hại các đề án kinh tế, xã hội quốc nội của ông. Do đó, họ (các sĩ quan) bị cấm chiến thắng - Và đa số còn nêu ý kiến rằng lẽ ra bộ tổng tham mưu nên từ chức hơn là chấp nhận những hạn chế gây tổn hại cho lực lượng Mỹ trên chiến trường.


    Lyndon Johnson và Kennedy.

    Những binh sĩ chuyên nghiệp công bố bản liệt kê các mối bất bình từ khi chấm dứt cuộc chiến. Một số bàn luận rằng họ bất lực vì hệ thống lệnh lạc giao phó cho những ban ngành khác nhau, hành xử một cách độc lập - Thí dụ, các cuộc hành quân bộ binh và không quân không thể phối hợp đồng bộ. Các cựu phi công không lực Mỹ cam đoan rằng oanh tạc Bắc Việt ngay từ khởi đầu thay vì chính sách leo thang chiến cuộc từ từ của Jonhson, sẽ đè bẹp Cộng Sản trước khi Sô Viết và Trung Cộng giúp họ xây dựng hệ thống phòng không đầy chết chóc như trên thực tế. Chuẩn tướng Robert Montague, phục vụ ở Việt Nam đầu thập niên 1960, một lỗi lầm to lớn là tung binh sĩ Mỹ, được huấn luyện dự phòng đẩy lui người Nga trên các đồng bằng Trung Âu, vào trong một chằng chịt núi rừng và đồng ruộng, nơi địch và dân lành không thể phân biệt được. Tướng Bruce Palmer, Jr... cựu đại biểu tướng Westmoreland, buộc tội hệ thống xoay vòng, theo đó binh sĩ Mỹ về nước chỉ một năm phục vụ tại Việt Nam - Một thời gian vừa đủ cho họ hội nhập với đơn vị. Bằng giọng thô lỗ quân sự, đô đốc Thomas H. Moorer, cựu tham mưu trong bộ tổng tư lịnh, phát biểu :"Chúng ta nên chiến đấu ở miền Bắc, nơi mọi người đều là quân địch, nơi bạn không phải lo ngại việc thương vong dân sự. Tại miền Nam, chúng ta phải đối phó với phụ nữ giấu lựu đạn trong nịt ngực hay trong tã của em bé sơ sinh. Tôi nhớ lại 2 binh sĩ thủy quân lục chiến bị một em bé sát hại trong lúc đang dạy em chơi bóng chuyền. Nhưng Lyndon Johnson không muốn lật đổ chính phủ miền Bắc. Thật tréo ngoe, mục đích độc nhất của chiến tranh là lật đổ một chính phủ bạn không thích."

    Còn tiếp.

  3. #3
    Ngày tham gia
    Dec 2015
    Bài viết
    0
    Tiếp theo.

    Đại tá Harry G. Summers, Jr., một nhà phân tích quân sự hàng đầu, kém gay gắt với báo chí và các chính trị gia hơn các đồng liêu. Một cựu chiến binh hai nhiệm kỳ phục vụ (2 lần sang Việt Nam, mỗi lần 1 năm), phê phán các chiến lược gia quân sự Mỹ cố tâm truy lùng các lực lượng du kích lẻ tẻ quấy nhiễu lực lượng Mỹ cho tới khi các đại đơn vị Bắc Việt có thể phát động các chiến dịch quy mô. Tóm lại, người Mỹ kiệt sức trong một nỗ lực phản phiến loạn vô vọng - giống như một con bò lủi đầu vào cái áo choàng thay vì húc người đấu bò." Đây là "chiến tranh tiêu hao", chiến lược của Westmoreland, khẳng định trên lý thuyết rằng hỏa lực ưu việt Mỹ sẽ làm kiệt quệ địch. Dù Mỹ thành công trong chiến thuật, Summers viết, công cuộc của họ là một thất bại chiến lược. "Bạn thấy đó," ông khoe khoang với một cựu đại tá Việt Cộng sau chiến tranh :"bạn không hề thắng chúng tôi trên chiến trường." Viên sĩ quan Việt Cộng trả lời :"Có lẽ như thế, nhưng nó không xác đáng vì cuối cùng chúng tôi thắng."
    Theo ước tính của Summers, Mỹ nên tiếp tục phản công cuối năm 1965, sau khi phá vỡ âm mưu chia cắt miền Nam ở vùng Tây Nguyên nơi dâu cư đông đúc dọc duyên hải. Mỹ cũng phải tấn công qua vùng phi quân sự tại vĩ tuyến 17, ranh giới hai miền, đồng thời lấn qua biên giới Lào cho đến biên giới Thái Lan, sát bờ sông Mê Kông để bịt kín tuyến xâm nhập Nam Bắc của Cộng Sản - Một giải pháp đòi hỏi ít binh sĩ hơn là công tác "truy lùng và tiêu diệt" của Westmoreland. Các nhà phân tích quân sự khác tìm ra một điểm là quân lực Sài Gòn sẽ bỏ công tác ấy - vì lãnh tụ của họ đã bị ruỗng đục bởi chính trị, tham nhũng và gia đình trị.
    Những mổ xẻ trên, giống như trò chơi chiến tranh, ít khi giống như trong thực tế. Cộng Sản hầu như điên cuồng trong quyết tâm thống nhất đất nước trong tay của họ. Họ quan niệm cuộc chiến đấu chống Mỹ và đồng minh miền Nam như một chương lịch sử mới chống xâm lăng sau 2 cuộc trường kỳ chống ngoại xâm Tàu và Pháp. Họ sẵn sàng chấp nhận tổn thất vô hạn nhằm đạt được mục tiêu thiêng liêng của họ.
    Hồ Chí Minh, một dáng dấp khắc khổ lãnh đạo cuộc thánh chiến, đã trình bày một cách rõ rệt cái đẳng thức cuộc chiến với người Pháp vào thủa ban đầu cuộc kháng chiến 9 năm :"Các người có thể tiêu diệt 10 người của chúng tôi đối lại một người bị tiêu diệt về phía các người, nhưng cho dù với chênh lệch ấy, các người sẽ thua và chúng tôi sẽ thắng." Tướng Giáp, tư lịnh lực lượng Việt Minh, hưởng ứng phát biểu ấy bằng giọng điệu khốc liệt hơn :"Mỗi phút, hàng trăm ngàn người chết trên trái đất. Sự sinh tử của 100, 1000, hay hàng vạn người, ngay cả đồng bào tôi chẳng có ý nghĩa gì." Được phỏng vấn tại Hà Nội vào tháng Ba năm 1990, ông lập lại điều quan tâm chủ yếu là chiến thắng chứ không phải tổn thất. "Bao lâu ngài có thể tiếp tục chiến đấu chống Mỹ?" Ông trả lời ngay tức khắc :"20 năm nữa, 100 năm nữa cho đến khi hoàn toàn thắng lợi, bất kể tổn thất." Dù rằng lời phát biểu này đều có sẵn từ trước mà mọi người dưới chế độ Cộng Sản chỉ việc lập lại, và dù rằng đây chỉ là lời nói cường điệu của kẻ đắc thế, không thể chối cãi nó là sự thực.


    Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp.

    Các chiến lược gia Mỹ lầm lạc khi gán ghép giá trị của họ vào quan điểm Cộng Sản. Westmoreland là một trong số đó. Ông đinh ninh rằng ông biết mức chịu đựng của Cộng Sản : bằng cách làm cho họ đổ máu, ông gây ấn tượng cho các lãnh đạo Cộng Sản nhận ra rằng họ đang rút cạn kiệt dân số của họ. "đến mực độ tai họa quốc gia trong nhiều thế hệ" và diều này buộc họ lựa chọn đường lối hòa bình. Ngay cả sau cuộc chiến, ông vẫn dường như hiểu lầm cái kích thước sự quyết tâm của họ. "Bất cứ tư lịnh Mỹ nào bị thiệt hại khổng lồ như tướng Giáp," ông nói, "sẽ bị cách chức ngay lập tức."
    Nhưng Giáp không phải một người Mỹ phải đối đầu với một người lạ ở một vùng đất xa xôi nào đó. Binh sĩ của ông và những toán dân công, chiến đấu ngay trên đất của họ, được thuyết phục rằng cuộc trường kỳ kháng chiến của họ rốt cuộc làm mỏi mòn lòng kiên nhẫn của đối phương và dẫn dắt họ đến thắng lợi. Chiến lược này giúp họ thắng người Pháp và Giáp tin rằng nó sẽ kiến hiệu với người Mỹ.
    "Chúng tôi không đủ mạnh để đánh đuổi nửa triệu lính Mỹ khỏi Việt Nam, nhưng đó không phải mục tiêu của chúng tôi," Giáp cắt nghĩa. "Chúng tôi nhắm vào bẻ gẫy ý chí theo đuổi cuộc chiến của chính phủ Mỹ. Westmoreland sai lầm khi trông cậy vào hỏa lực vượt trội nghiền nát chúng tôi. Các đồng chí Sô Viết và Trung Quốc cũng không nắm được sách lược chúng tôi khi họ chất vấn rằng chúng tôi có bao nhiêu sư đoàn trong tương quan quân sự với Mỹ, làm thế nào chúng tôi đương đầu với kỹ thuật, trọng pháo, các cuộc tấn công của họ. Chúng tôi phát động cuộc chiến tranh nhân dân - lại giở bài vở họ Mao, người Cộng Sản chỉ biết lập lại - "à la manière Vietnamienne" một cuộc chiến tranh toàn diện trong đó mọi người bất kể nam nữ, mọi đơn vị lớn nhỏ đều được động viên. Do đó vũ khí tinh xảo của Mỹ, các bộ phận điện tử và mọi thứ khác đều không địch nổi. Dù với sức mạnh quân sự vĩ đại, nước Mỹ lượng định sai cái giới hạn sức mạnh của nó. Chiến tranh có 2 yếu tố - nhân lực và vũ khí - Cuối cùng, con người là yếu tố quyết thắng. Con người! Con người! - Trong men say chiến thắng, Giáp quên một điều kém luận lý là trong lịch sử, Việt Nam bị hàng ngàn năm đô hộ bởi Trung Hoa, hàng trăm năm đô hộ Pháp dù rằng Việt Nam nắm yếu tố con người.


    Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông.

    Nực cười, nhiều sĩ quan Mỹ đồng ý với lý thuyết này. "Quân đội Mỹ và đồng minh Nam Việt Nam," tướng Palmer viết sau chiến tranh, "biểu thị khuynh hướng trông cậy vào hỏa lực và kỹ thuật siêu việt hơn là tài nghệ, chất lượng cá nhân mỗi chiến binh ... Có những viên chức Mỹ liên tục tìm kiếm những phát kiến khoa học thần diệu - đại loại đồ án nguyên tử Manhattan thuộc Thế Chiến Thứ Hai - nhằm mang lại kết quả mỹ mãn và kết thúc cuộc chiến. Nhưng đó chỉ là mơ ước hão huyền, bất khả hiện thực, mang tính khờ khạo."
    Giáp thú nhận trong một hội thoại với báo chí Mỹ rằng Cộng Sản bị điêu đứng bởi nhiều thời kỳ "khó khăn." Nhưng ông gằn giọng :"Chúng tôi không bao giờ bi quan. Không bao giờ! Không bao giờ!" Ông ta giống các vị tướng khác khắp thế giới luôn bào chữa những thất bại và ca tụng những chiến thắng. Tuy nhiên, ít người Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam phủ nhận sự kiên trì của binh sĩ dưới quyền Giáp.
    "Họ có khả năng hồi phục phi thường," Palmer viết, "chịu đựng những tổn thất ngoài sức tưởng tượng của chúng tôi, bổ sung quân số, trang bị, huấn luyện quân sự, chính trị và rồi bình phục ... Ý chí bền bỉ của họ không thể dập tắt được." Konrad Kellen, một chuyên gia dân sự chuyên thẩm vấn tù binh, nhận xét về binh sĩ Cộng Sản :"các loại hủy diệt thể xác, quỵ ngã, đầu hàng, rã ngũ - một cách kỳ lạ - không có trong khả năng của họ." Trung tá Stuart Herrington, một cố vấn quân sự Mỹ, hồi tưởng lại :"tôi khó ngăn được niềm khâm phục tính bền bỉ, thiện chiến và dũng cảm " của lực lượng cán binh Bắc Việt, những kẻ thành thực tin rằng họ đang "cứu các anh em ruột thịt miền Nam trong tay đế quốc." Một tướng lãnh Mỹ gọi họ là địch thủ lợi hại nhất chúng ta đối địch trong lịch sử," và đại tá David Hackworth, một sĩ quan bộ binh nổi tiếng, mô tả quang cảnh một công sự chiến đấu Cộng Sản ngập lụt mưa bom. "Những vị trí bố phòng được tử thủ bởi các cán binh nòng cốt, không hề nhượng bộ sau khi lỗ tai, lỗ mũi xuất huyết vì chấn động tiếng nổ."
    Sự ngoan cố của binh sĩ Bắc Việt rõ rệt một cách lố bịch trong quang cảnh những xác chết của họ xếp lớp như những thước củi chất đống sau trận chiến. Tại Việt Nam sau chiến tranh, những cựu cán binh Cộng Sản sau 7, 8 năm chiến đấu tại miền Nam, được phỏng vấn, nhiều người thành thực thú nhận sự sợ hãi - đặc biệt khi bom Mỹ dội vào mật khu của họ. "B52 thật là khủng khiếp," đại tá Bùi Tín, kẻ sống sót hơn 20 trận bom. "Phi cơ bay ở cao độ nên chúng tôi không được cảnh giác. Đột nhiên bom nổ khắp nơi. Chúng tôi bịt tai, phân tán mọi hướng tìm những hầm hố hầu tránh bị trực tiếp trúng bom. Cuộc oanh tạc kéo dài vài phút, chúng tôi trồi lên từ những nơi ẩn núp chôn cất các đồng chí không may, nhiều tử thi không nhận dạng được vì vết thương." Khủng khiếp ngang mức ấy là bom xăng đặc, nung chảy nạn nhân thành chất thịt dẻo. Vài nạn nhân sống sót, biến dạng vì phỏng nặng, lẩn tránh trong những hang động hẻo lánh và những địa điểm xa xôi khác . Năm 1990, vẫn còn vài người ẩn náu từ cuộc chiến và nuôi một hy vọng mong manh về tiến bộ khoa học trong lãnh vực phục hồi nhân dạng. Nhưng Việt Nam không thể hội đủ chi dụng tổn phí cho giải phẫu thẩm mỹ.
    Binh sĩ Mỹ khi nhìn vào các xác chết không toàn thây của Việt Cộng thường gọi họ là "gooks", bọn mọi vàng, vì quan niệm về sự sống của Tây Phương khác biệt hẳn với họ. Phản ứng cùng một thái độ như thế, Westmoreland thường nói trong thời chiến, "Họ là những người Á Châu không nghĩ về cái chết giống như chúng ta." Những nhận xét đầy tính cách kỳ thị chủng tộc này vô hiệu hóa khẳng định chính thức của Mỹ là bảo vệ nền tự do của miền Nam Việt Nam, cũng là người Á Châu. Lời bình phẩm cũng làm gợi nhớ lại những bức hình chụp các xác chết binh sĩ Bắc Nam của Mathew Brady ở Antietam và Gettysburg trong cuộc nội chiến, nơi hàng ngàn thanh niên bỏ mình cho lý tưởng. Nhưng lần này, lý tưởng của người Việt là một thứ lý tưởng người Mỹ không thể hiểu nổi.
    Cựu cán binh Cộng Sản được phỏng vấn sau cuộc chiến đều gợi lại lý tưởng của họ - dù bao gian nguy thử thách, họ nói đó là bổn phận "giải phóng tổ quốc." Khẩu hiệu có vẻ khuôn mẫu tuyên truyền trong đôi tai ngờ vực của người nghe nhưng lịch sử Việt Nam cũng vô tình bổ nghĩa cho luận điệu này. Việt Nam, một chiến trường hàng ngàn năm, tôn kính những anh hùng dân tộc, lịch sử thật cũng như huyền sử, chiến đấu chống ngoại xâm, chủ yếu là bọn Trung Quốc. Thêm vào ý tưởng ấp ủ rằng mỗi người dân là một chiến sĩ, ký ức về những cuộc chiến đấu này đã nhào nặn một ý thức mãnh liệt về căn nguyên quốc gia rộn ràng trên các sân khấu, văn chương hay nghệ thuật dân gian Việt Nam. Hiện tượng này rõ rệt trong một ngôi chùa ở Hà Nội, trẻ em khấu đầu, thắp nhang trước những pho tượng chiến sĩ trong truyền thuyết, quên mình chiến đấu cho quê hương. "Ý thức hệ sâu sắc nhất của chúng tôi, cái cảm giác tỏa khắp trong lòng nhân dân, "Giáp nói, "là lòng yêu nước. "Các tâm lý gia Hà nội cũng nói như thế." Ngay cả người dân cùng khổ nhất cũng đầy tinh thần quốc gia," họ tiếp, "trong thời chiến, đức tính này có thể phát triển thành bài ngoại chủ nghĩa."
    Dean Rusk, bộ trưởng ngoại giao thời Kennedy và Johnson mà tinh thần chống Cộng sục sôi từ thời chính quyền Truman, cuối cùng thú nhận năm 1971 rằng ông đã "với tư cách cá nhân, đánh giá thấp" cái khả năng kháng chiến của Bắc Việt và Việt Cộng. "Họ chịu tổn thất hơn 700 ngàn binh sĩ, nếu so sánh tỷ lệ dân số thì tương đương với 10 triệu người Mỹ." Một sĩ quan cao cấp ở Hà Nội sau này thú nhận rằng non một triệu lính Cộng Sản chết và nhiều triệu bị thương. Khi được hỏi về tổn thất dân sự, họ nói "Chúng tôi không hề biết."
    Tướng Maxell Taylor, một trong những cố vấn của Kennedy về Việt Nam và sau đó, đại sứ tại Sài Gòn dưới trào Johnson, là một nhà kiến trúc chủ yếu trong chính sách can thiệp Mỹ. Trước khi qua đời không lâu năm 1987, ông thú nhận rằng chính sách can thiệp vừa là một thất bại, vừa là một bài học. "Trước tiên, chúng ta không biết mình. Chúng ta tưởng đây là cuộc chiến giống như chiến tranh quy ước Đại Hàn, nhưng thực ra là một cuộc chiến khác, du kích và không chiến tuyến rõ rệt. Thứ nhì, chúng ta không biết đồng minh, các bạn miền Nam Việt Nam. Chúng ta không bao giờ hiểu họ. Đò là điều đáng ngạc nhiên. Và cuối cùng chúng ta lại càng không hiểu địch. Hồ Chí Minh là ai? Không ai thực sự hiểu. Vì vậy, trừ phi chúng ta biết mình, biết bạn, biết địch, tốt hơn hết là không nên can thiệp. Nó rất nguy hiểm."
    Henry Kissinger cũng hoang mang, bối rối trong những cuộc đàm phán kín với Cộng Sản. Mục đích tối thượng là tránh sự tái diễn của cuộc đàm phán đình chiến không lối thoát trong cuộc chiến Đại Hàn mới đây, kéo dài suốt 2 năm, bởi vì, ông tin rằng, Mỹ không làm mạnh ngoại giao bằng đe dọa vũ lực. Ông cho rằng Bắc Việt chỉ nhượng bộ nếu bị đe dọa tiêu diệt hoàn toàn - một giải pháp tổng thống Nixon kín đáo gọi là "thuyết của kẻ khùng điên." Nhưng giống như những ngoại trưởng tiền nhiệm, Henry Kissinger không bao giờ tìm thấy điểm "kiệt sức" của địch. Sau này ông khẳng định ngược lại, Cộng Sản chỉ đồng ý ngừng bắn tháng 10 năm 1972 sau khi ông trao cho họ những nhượng bộ tai hại đến tương lai của chính phủ miền Nam Việt Nam.
    Áp lực thực sự đè lên chính quyền Nixon để quyết định một giải pháp cho Việt Nam đến từ quần chúng Mỹ - vào lúc đó muốn hòa bình hầu như bằng mọi giá - vì những lý do Kissinger đã nhận thấy 4 năm về trước. Năm 1968, Cộng Sản phát động cuộc tổng công kích, tổng nổi dậy vào những thị trấn, thành phố khắp miền Nam. Kissinger thấy đó chính là khúc rẽ ngoặt của nỗ lực Mỹ tại Việt Nam: "Từ đây, bất kỳ các hoạt động của chúng ta kiến hiệu như thế nào, chiến lược hiện hành không còn đạt được mục tiêu của nó bên trong một giai đoạn hay với sự sử dụng binh lực nào có thể được công chúng Mỹ chấp nhận."


    Lê Đức Thọ và Kissinger sau một phiên họp hòa đàm Paris.

    Người Mỹ sẵn sàng hy sinh xương máu, tiền của như những cuộc chiến tranh khác. Nhưng họ muốn thấy sự tiến triển, muốn nghe khi nào chiến tranh chấm dứt. Thời Đệ Nhị Thế Chiến, họ có thể ghim những kim găm trên bản đồ và theo dõi cuộc tiến quân của quân đội Mỹ khắp Âu Châu; tại Việt Nam, nơi không có chiến tuyến, họ chỉ được công bố những tin tức vô nghĩa về con số tổn thất địch gọi là "enemy body counts" - và những hứa hẹn rực rỡ. Nước Mỹ mang lại sức mạnh quân sự khủng khiếp để đập tan tinh thần Cộng Sản, Mỹ tự tan vỡ dưới sức nén của cuộc chiến có vẻ triền miên bất tận. Một mục tiêu ban đầu do tổng thống Eisenhower đề xướng là bảo vệ Đông Nam Á, nơi những quốc gia bé nhỏ đổ sụp như những quân cờ đô mi nô nếu Cộng Sản chiếm miền Nam Việt Nam. Leslie Gelb của tờ the New York Times mỉa mai rằng những quân cờ đô mi nô bị đổ ấy thực ra chính là công luận Mỹ.
    Quần chúng, đau buồn vì tổn thất chồng chất, thuế má tăng và không thấy viễn ảnh một giải pháp trong tầm mắt, quay sang chống chiến tranh trước khi các chính trị gia chống. Nghi hoặc lan tràn trong các thành viên quốc hội. Ngoại trừ một số các nghị sĩ như William Fullbright, Wayne Morse, Ernest Gruening, Gaylord Nelson và Eugene McCarthy, ít người chuyển mối nghi hoặc riêng tư của mình thành bất mãn công khai. Cho đến tháng Ba năm 1968, khi quyết định ra tranh cử tổng thống, anh của cựu tổng thống John F. Kennedy, nghị sĩ bang New York, ông Robert lên án sự tham chiến ở Việt Nam - là một trong những tiếng nói đầu tiên phản đối chiến tranh. Cũng không nhiều người bất mãn trong giới lãnh đạo hành pháp ngoại trừ ông George Ball, một viên chức ngoại giao cao cấp trong chính phủ Kennedy và Johnson. Ball sau này hồi tưởng lại: "Có lẽ đây là lỗi lầm trọng đại nhất lịch sử nước Mỹ mắc phải."

    Còn tiếp.

  4. #4
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0

    Thảm sát Mậu Thân 1968. Kẻ sát nhân vụ thảm sát Mỹ Lai đã ra tòa án quân sự Mỹ đền tội, cớ sao những tên sát nhân vụ Mậu Thân vẫn được nhà nước VN che giấu?
    có thể kể cho tôi biết từng ngaì lính Mỹ tham gia vụ đó đã lãnh những bản án cỡ naò ko ? Ko phaỉ nghi ngờ , tôi chỉ muốn hiểu người Mỹ xem những kẻ thảm sát đáng chiụ những hình phạt đến mức naò mà thôi , nhìn người để nhìn mình mà .[IMG]images/smilies/25.gif[/IMG]

  5. #5
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0
    Calley was charged on September 5, 1969, with six specifications of premeditated murder for the death of 109 Vietnamese civilians near the village of My Lai, at a hamlet called Son My, more commonly called My Lai in the U.S. press. In this incident, as many as 500 villagers, mostly women, children, infants and elderly, were systematically killed by American soldiers during a bloody rampage in 1968. If convicted, Calley faced the death penalty.

    Calley's trial started on November 17, 1970, and resulted in a conviction on March 29, 1971, of premeditated murder of 22 civilians. Testimony revealed that Calley had ordered the men of 1st Platoon, C Company, 1st Battalion, 20th Infantry of the 23rd Infantry Division (Americal) to kill everyone in the village. Calley claimed that he was following the orders of his immediate superior, Captain Ernest Medina. Whether or not this order was actually given is disputed; Medina was later acquitted of all charges relating to the incident at a separate trial. On March 31, 1971, Calley was sentenced to life imprisonment.

    Trung úy Calley lãnh án tù chung thân năm 1971 với tội danh cố ý giết người (premeditated murder).

  6. #6
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0
    Cái bài ca thảm sát Mậu Thân chúng ta nghe đến giờ đã là lần thứ bao nhiêu rồi nhỉ [IMG]images/smilies/21.gif[/IMG]

  7. #7
    Ngày tham gia
    Nov 2015
    Bài viết
    0
    Đây là bài viết của người ngoại quốc. Ông ta không biết rằng thảm sát Mậu Thân đã được nhắc lại nhiều lần, trở thành nhàm.

    Nhưng các bạn nên nhớ cái làm cho chúng ta thua người chính là ta luôn lẩn tránh sự thật nếu nó xấu. Các bạn thấy tổng thống Mỹ, ông Bill Clinton chơi gái trong tòa Bạch Ốc thì các bạn cười phun nước miếng, khinh miệt văn hóa Mỹ, mà không hề nghĩ rằng để những chuyện ấy lọt ra ngoài công luận, người Mỹ phải có cái lòng can đảm nhìn nhận cái xấu.

    Còn chúng ta?

    Trong lịch sử, Khang Hy đã truyền quân rút lui sau khi bao vây một ổ Phản Thanh Phục Minh chỉ vì Ổ phản động đó chỉ là những quả phụ, trẻ con mặc đồ tang, khóc lạy di ảnh vua của họ.
    Thường thường sau khi thôn tính và bình định một lãnh thổ nào đó, chỉ cần vài năm sau dân bị trị được quyền thờ cúng vua của họ. Còn ta thì sao?
    Hàng năm, đúng ngày 30 tháng Tư, tại hải ngoại người ta tụ họp làm phim kỷ niệm ngày mất nước, khóc những vị anh hùng của họ, ca ngợi lòng yêu nước của chiến sĩ VNCH, nổi bật nhất là Trung Tâm Thúy Nga và Trung Tâm Asia. Ở các tiểu bang ít người Việt, các cộng đồng cũng tụ họp nhắc nhở kỷ niệm v.v... Đấy là văn hóa. Con người không quên nguồn gốc. Không nơi nào khích động hận thù hay xúi bẩy chống lại VN.

    Thế nhưng báo chí trong nước (vì chỉ được phép nói theo ý đảng nên coi như tiếng nói đảng) lại nuôi dưỡng hận thù bằng cách xuyên tạc tằng người hải ngoại gặm nhấm hận thù. Trích báo Công An Thành Phố:

    (CATP) Thanh tra Bộ VH-TT&DL vừa có công văn 114/ TTr đề nghị thanh tra Sở VHTT các địa phương kiểm tra, xử lý và thu hồi bộ đĩa Thúy Nga Paris by night 91 đang lưu hành lậu trên thị trường băng đĩa trong nước. Công văn có đoạn viết: “Hiện nay trên thị trường đang lưu hành bộ đĩa Thúy Nga Paris by night 91 có tựa đề Huế - Sài Gòn - Hà Nội. Đây là bộ đĩa có nội dung phản động, thể hiện sự nuối tiếc về một Sài Gòn dưới chế độ cũ, gợi lại vết thương chiến tranh...”.

    Người ta khóc cha mẹ, ông bà là phản động sao? Hay những người thua trận mỗi năm đúng ngày 30 tháng 4 phải chửi cha mắng mẹ của họ liếm gót đế quốc mới là yêu nước? Chúng ta quên rồi thời đảng bắt con cái phải đấu tố cha mẹ sao? Giặc Mông Cổ sau khi chiếm Trung Hoa có cấm dân Trung Hoa thờ các vua nhà Tống đâu? Tại sao hơn 30 năm rồi, đảng thù dai thế?

    Tới đây Meta mông lung nghĩ đến giả dụ đảng phát động phong trào diệt cha mẹ phản động để tỏ lòng yêu nước, chắc các HVB ở đây sẵn sàng vác dao về nhà cắt cổ cha mẹ quá!

    Trở lại đề tài. Có can đảm nhận lỗi mới biết tha thứ vì chính mình cũng lầm lỗi. Thấy ai nói trái mình thì xóa, vu tội phản động thì muôn đời không tiến bộ. Không tiến bộ không chỉ ngu dốt mà chính là diệt vong.

  8. #8
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0

    Thanh tra Bộ VH-TT&DL vừa có công văn 114/ TTr đề nghị thanh tra Sở VHTT các địa phương kiểm tra, xử lý và thu hồi bộ đĩa Thúy Nga Paris by night 91 đang lưu hành lậu trên thị trường băng đĩa trong nước. Công văn có đoạn viết: “Hiện nay trên thị trường đang lưu hành bộ đĩa Thúy Nga Paris by night 91 có tựa đề Huế - Sài Gòn - Hà Nội. Đây là bộ đĩa có nội dung phản động, thể hiện sự nuối tiếc về một Sài Gòn dưới chế độ cũ, gợi lại vết thương chiến tranh...”.
    Gào lên là vi phạm bản quyền rùi lại gào lên là bị bịt miệng [IMG]images/smilies/21.gif[/IMG]

    Trong lịch sử, Khang Hy đã truyền quân rút lui sau khi bao vây một ổ Phản Thanh Phục Minh chỉ vì Ổ phản động đó chỉ là những quả phụ, trẻ con mặc đồ tang, khóc lạy di ảnh vua của họ.
    Thường thường sau khi thôn tính và bình định một lãnh thổ nào đó, chỉ cần vài năm sau dân bị trị được quyền thờ cúng vua của họ. Còn ta thì sao?
    Hàng năm, đúng ngày 30 tháng Tư, tại hải ngoại người ta tụ họp làm phim kỷ niệm ngày mất nước, khóc những vị anh hùng của họ, ca ngợi lòng yêu nước của chiến sĩ VNCH, nổi bật nhất là Trung Tâm Thúy Nga và Trung Tâm Asia. Ở các tiểu bang ít người Việt, các cộng đồng cũng tụ họp nhắc nhở kỷ niệm v.v... Đấy là văn hóa. Con người không quên nguồn gốc. Không nơi nào khích động hận thù hay xúi bẩy chống lại VN.
    Trời ơi không chống lại CS không chống lại VN vụ này mới nha chết mịa hôm nay là mùng 1 tháng tư à [IMG]images/smilies/21.gif[/IMG]

    Người ta khóc cha mẹ, ông bà là phản động sao? Hay những người thua trận mỗi năm đúng ngày 30 tháng 4 phải chửi cha mắng mẹ của họ liếm gót đế quốc mới là yêu nước? Chúng ta quên rồi thời đảng bắt con cái phải đấu tố cha mẹ sao? Giặc Mông Cổ sau khi chiếm Trung Hoa có cấm dân Trung Hoa thờ các vua nhà Tống đâu? Tại sao hơn 30 năm rồi, đảng thù dai thế?
    bác khóc cha mẹ bác ok chuyện bình thường đến em cũng tiếc mấy chiến sĩ VNCH bảo vệ HS, nhưng bác dựa vào đó để làm loạn là không được ví như ở Mẽo bác bầy tỏ thương tiếc dân da đỏ bị sát hại thì ok nhưng bác bảo dẹp bỏ nước Mẽo để trả lai cho dân da đỏ [IMG]images/smilies/21.gif[/IMG] chú tổng thống nào lền đài đây

    Trở lại đề tài. Có can đảm nhận lỗi mới biết tha thứ vì chính mình cũng lầm lỗi. Thấy ai nói trái mình thì xóa, vu tội phản động thì muôn đời không tiến bộ. Không tiến bộ không chỉ ngu dốt mà chính là diệt vong.
    sorry chú nếu chú thấy sai chú kêu ok không sao nhưng chú đựa vào đó yêu cầu nước ngoài phải làm thế này phải làm thế kia để ép VN thì xin lỗi chú thành Việt gian rùi (dân ta lạ thế đó nếu chú dựa vào sức lực nội tại của VN mà dành chính quyền thì không sao nhưng cứ đính đến ngoại lực là chú lên thớt rùi)

    Tới đây Meta mông lung nghĩ đến giả dụ đảng phát động phong trào diệt cha mẹ phản động để tỏ lòng yêu nước, chắc các HVB ở đây sẵn sàng vác dao về nhà cắt cổ cha mẹ quá!
    điểm mười cho sự tưởng tượng của chú và hy vọng sẽ đọc được tác phẩm truyện viễn tưởng của chú viết trong thời gian ngắn nhất [IMG]images/smilies/24.gif[/IMG]

  9. #9
    Ngày tham gia
    Dec 2015
    Bài viết
    174
    Trích dẫn Gửi bởi metamorph

    Trung úy Calley lãnh án tù chung thân năm 1971 với tội danh cố ý giết người (premeditated murder).
    Anh hết chịu nổi chú rồi đấy. Chú có trích dẫn thì cũng trích dẫn cho nó đầy đủ nguyên vẹn; nếu không thì cũng đừng có ngạc nhiên nếu có 1 ngày ăn nguyên cục gạch vào mặt. Thích chơi cái trò lập lờ hả.

    After a 10-month-long trial, in which he claimed that he was following orders from his commanding officer, Captain Medina, William Calley was convicted, on September 10, 1971, of premeditated murder for ordering the shootings. He was initially sentenced to life in prison. Two days later, however, President Nixon made the controversial decision to have Calley released from prison, pending appeal of his sentence. Calley's sentence was later adjusted, so that he would eventually serve four and one-half months in a military prison at Fort Benning.
    Cái vở kịch này chắc giành giải Ốt xờ ca nhẩy

    On 17 March 1970, the United States Army charged 14 officers, including Major General Samuel W. Koster, the Americal Division's commanding officer, with suppressing information related to the incident. Most of those charges were later dropped.
    http://en.wikipedia.org/wiki/My_Lai_massacre

  10. #10
    Ngày tham gia
    Aug 2015
    Bài viết
    0
    Ano .... tui ko dám click và link , cũng ko dám đọc dịch từng từ . Bởi vì tui cực kỳ dễ bị sốc trước mấy vụ như vầy . Việc ngồi dịch ko phaỉ khó với tui , nhưng nó sẽ khiến tui ấn tượng dữ dội hơn với sự kiện .

    Có thể noí 1 câu ngắn gọn , Bao nhiêu người bị xử và bị mức án gì . 1 trong 1 câu thôi , cám ơn .

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •